Thích ứng đến không còn là chính mình

Chỉ những trận cầu play-off mới đáng xem. Bởi đó là những trận một sống một còn người ta phải loại trừ nhau để tồn tại -- trong một số báo trước tôi đã ghi nhận sự thực đó trong bóng đá để minh chứng cho cuộc đấu tranh sinh tồn nhiều khi quá khắc nghiệt trong lòng xã hội Việt.

Blog & website bạn bè
Nhưng các nhà báo thể thao còn nói thêm : trong khi play-off thì các cuộc đấu ở giải ngoại hạng thường lại quá nhàm chán . Có cảm tưởng là người ta sợ vô địch .Vì nhiều lý do khác nhau ,trong đó có một lý do là vô địch sẽ rất mệt . Đứng ở đỉnh cao rất tốn kém . Bị ràng buộc bị đòi hỏi nhiều . Lơ là một tí là bị xô đổ . Cái được chẳng là bao so với cái mất.
Kết hợp cả hai hiện tượng trên , có thể đọc ra một quy luật hai mặt: Đừng ai hòng “giết” chúng ta . Muốn loại ta ra khỏi cuộc sống , sự chống trả sẽ diễn ra đến cùng. Dẫu phải cạp răng vào đất ta cũng chẳng từ .
Song bảo từng cá nhân tự vượt mình thì lại là chuyện bất khả , đến ông trời cũng phải lắc đầu .
Nói cách khác con người nơi đây thường dừng lại ở tình trạng dang dở nửa vời . Không có nhu cầu hoàn thiện . Cuộc sông lan ra theo chiều rộng mà không vươn lên theo chiều cao

Những năm trước sau 1970 , tôi từng phụ việc biên tạp thơ ở một tạp chí . Mỗi tháng , tôi phải chọn để trình lên trên độ mươi –mười lăm bài thơ . Cái khó của tôi là -- với từng nhà thơ mà với cả nền thơ cũng vậy -- bài có thể đăng luôn quá nhiều , vài chục bài cũng có . Trong khi đó để tìm cho được một hai bài thật hay thường không có .
Điều quan trọng là trong thâm tâm nhiều nhà thơ chỉ lo sản xuất đều đều , mà không tính chuyện vượt mình . Người ta bảo rằng một trong những lý do khiến Hemingwway tự tử là do sau khi viết Ông già biển cả , tác giả cảm thấy mình không bao giờ viết hơn được nữa . Tâm lý đó xem ra xa lạ với các nhà thơ Việt
Tâm lý dừng lại thỏa mãn xa lạ với sự hoàn thiện có thể bắt đầu từ một cuộc sống quá dễ dàng và sự tự bằng lòng đến với người ta một cách tự nhiên; mà cũng có khi bắt đầu từ một cuộc sống quá khó khăn mỗi phen vươn lên là một lần tróc da sày vẩy.Trong cả hai trường hợp cái chính là chúng ta thiếu sự dẫn dắt của lý tính để hiểu ra sự vô tận của đời sống cũng như sự vô tận của khả năng con người . Không có đích để nhắm tới , không đủ khát vọng và ý chí thực hiện khát vọng , chúng ta nghĩ ra đủ thứ lý do biện hộ cho sự dừng lại của mình .
Đã có nhiều người ca ngợi và biện hộ cho tính thích ứng của người Việt, hiếm hoi lắm mới thấy có người tìm ra ở đây một ý kiến phủ nhận . Trong số này có bà Thái Kim lan Bà cho rằng việc thích ứng quá nhanh làm cho người ta không trau dồi được bản lĩnh và không nâng cao được mình lên .
Nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học xuất phát từ kinh nghiệm của các dân tộc khác , cũng có những kết luận tương tự.
Trong một tài liệu mang tên Xã hội học cá nhân, I.X.Kon ( Nga thời xô viết) từng cho rằng về đường trí tuệ kẻ lo thích nghi kém phát triển hơn người độc lập. Họ thường nghe ngóng dao động và rất dễ bảo thủ. Họ không đủ lòng tự tin. So với những nhân cách độc lập, và được phát triển trong điều kiện chính thường, thì quan niệm của họ về bản thân phiến diện hơn hời hợt hơn. Đứng trước thực tế khách quan, năng lực phán đoán của họ thấp. Với người chung quanh họ vừa thiếu tin tưởng vừa dễ bị lừa. Nói chung là họ rất thụ động, hay đạo đức hóa các mối quan hệ và sợ xa rời tiêu chuẩn.
Những đăc điểm đó của con người thích ứng cũng là đặc điểm của của người Việt trong trường kỳ gian nan lịch sử , và đến thời bao cấp.
.Một ông già lần mò tìm kiếm mãi mới có được một bộ đồ trà rất đẹp ,. Chẳng may ông sa vào cảnh làm ăn thất bát , đành mang theo chiếc ấm lang thang khắp nơi . Một lão già khác biết vậy , cho lão tá túc và dùng trăm phương nghìn kế để chiếm lại chiếc ấm đó kể cả giá rất cao . Người chủ nhân chiếc ấm không chịu,vẫn ngày ngày pha trà uống nước . chho tới khi chết.Lúc này lão nhà giàu đi tìm cái ấm , nào ngờ trước lúc trút hơi thở cuối cùng
ông lão ăn mày còn cố sức ném cái ấm ra sân để nó vỡ ra từng mảnh .
Ba Kim từng ghi lại giai thoại sau đây để liên hệ tới cuộc đời nhà văn Lão Xá , người đã tự tử trong Cách mạng văn hóa Mẩu chuyện này có mô-típ tương tự với truyện ngắn

Giã từ nếp sống buông thả

Sau mấy chuyến đi du lịch bụi sang Trung quốc, tôi đặc biệt có ấn tượng tốt về những chiến sĩ cảnh vệ gác trước doanh trại và một số công sở bên ấy. Trên cái bục rộng, đặt vuông vắn, họ đứng thẳng như cây cột, vẻ mặt nghiêm trang kỳ lạ.
Lại nhớ mấy anh em làm nghiệp vụ tương tự bên mình mà buồn, thôi thì dựa lưng vào tường, đứng chân co chân ruỗi đủ kiểu. Chắc chắn là có lúc họ cũng nghiêm chỉnh lắm, nhưng sự nghiêm chỉnh này chỉ được một lúc, không sao kéo dài và ổn định như lẽ ra phải thế.
Gần đây , nhiều trạm gác này của ta cũng đã có bục , và đây có lẽ là một ví dụ về vai trò quan trọng của các trang bị với cách làm việc của con người : các chiến sĩ cảnh vệ ta đã trở nên nghiêm chỉnh hơn trước .
Nhưng trang bị không phải là thứ thuốc bách bệnh .
Mùa lạnh, nhiều phen qua cầu Chương Dương, tôi chỉ ước ao giá kể cấp trên phát thêm cho các nhân viên chỉ huy giao thông một ít găng tay. Vì trong gió lạnh, người nào cũng đút tay vào túi, có giải quyết chuyện gì với người đi đường cũng một tay đút túi mà giải quyết, trông như mấy anh nhân viên trật tự ở một làng xã nào đó, chứ không phải người thay mặt chính quyền chỉ huy giao thông ở cửa ngõ một thủ đô thời hiện đại.
Nhưng tôi biết giá kể có trang bị găng thì rồi các nhân viên đó cũng sẽ nhanh chóng vứt vạ vứt vật đâu đó. Đút tay vào túi có cái thoải mái của nó, chứ găng tay ư, bức bối lắm. Ấy là không kể việc đút tay vào túi, cũng như phì phèo thuốc lá ngay trong khi làm việc công, có cái oai oai của kẻ có quyền, -- nếu không phải là ý thức, thì cái phần tiềm thức nằm sâu trong tâm lý, từng phút từng giây vẫn thì thào với người ta như vậy.
Dẫu sao khi ở ngoài đường, các nhân viên thường được phát trang phục thống nhất nên còn đỡ. Gặp anh cán bộ nhà nước mình trong những phòng làm việc cổ lỗ của Hà Nội mới thấy vui. Thôi thì chỗ này một cô tám rưỡi mới giở gói xôi ra để ăn, chỗ kia ngay cửa ra vào là một anh tán chuyện với người yêu, cười hô hố trong điện thoại.
Nhân dịp con nghỉ hè, một chị mang con đến, mẹ con “bắt chấy bắt rận ” cho nhau. Sắp đến tuổi về hưu, bệnh tật đầy mình, đã mấy năm nay, một ông vừa làm sổ sách vừa không quên để mắt vào ấm thuốc bắc.
Lại như cái chuyện, ở nhiều cơ quan phòng làm việc nào cũng có một bát hương. Không phải tôi mà chính một bậc lão thành năm nay đã ngoại tám mươi là Tô Hoài cũng đã có lần lên tiếng về chuyện này. Chúng tôi hiểu rằng cuộc sống quá bấp bênh, nên nhiều người sinh ra mê tín. Có tốn kém bao nhiêu đâu ? Tội gì không làm. Người ta nghĩ vậy. Và một khi nó đã lan ra thì giống như một thứ sốt nhẹ, dễ lây lan lắm. Nhưng có lẽ nên hạn chế nó lại đặt nó vào phạm vi gia đình là cùng, chứ sao lại mang đến tận công sở thế này.
Thần Phật có có chăng nữa thì cũng phù hộ người chăm chỉ chịu khó nghiêm túc với công việc, chứ đâu có phải cứ lễ bái đều vào, là có bảo hiểm, rồi yên tâm mà tha hồ làm bậy ?
Cách sống buông thả trong các cơ quan hiện nay vốn bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa. Trước tiên, đây là nếp sinh hoạt của cả xã hội.
Thằng con trai mười bốn tuổi của tôi có một thói quen là bất cứ lúc nào xem tivi cũng chỉ thích nằm bò ra sàn. Khi tôi kể chuyện này với nhiều người thì ai cũng gật đầu đồng tình, phần lớn trẻ các nhà đều như vậy.
Dáng đi thũng thĩnh bất cần đời. Ghếch chân ngang mặt khi đọc sách. Cần viết cái gì thì đè ngay lên đầu gối mà viết, hoặc sẵn sàng viết trên một mặt bàn khấp khểnh sách bút, để rồi lấy đó làm cớ biện hộ cho những hàng chữ rất xấu. Ở lớp trẻ hiện nay nhiều thói quen kỳ lạ như vậy đã được hình thành.
Cố nhiên không thể chỉ một chiều trách trẻ con được. Vì cách ăn ở sinh hoạt của người lớn chẳng có hơn gì.
Chưa bao giờ đường phố của chúng ta có nhiều loại xe đẹp xe sang như hiện nay. Nhiều người ăn mặc như vừa từ Paris New York về, mới xuống sân bay hôm qua. Nhưng lạ một cái là những cảnh trái ngược cài chen nhau. Nhiều lần tôi cứ ngỡ ngàng khi bắt gặp một thanh niên vừa diện bộ cánh hảo hạng, dăm phút sau đánh trần cưỡi xe máy ra phố mua thuốc lá, cười nói rầm rĩ. Và nhiều phen lơ đãng nhìn kỹ vào chiếc xe bóng loáng đang đậu vỉa hè, tôi vẫn không quen được cảnh mấy bác không còn trai trẻ cũng xả láng. Trong khi đậu xe chờ sếp, các bác cởi giày, gác cả hai chân lên cửa hóng gió.
Ở Hà Nội từ 1964 về trước, không bao giờ có cảnh vứt chuột chết ra đường và ở các công viên, không có cảnh “ thượng “ cả dép lên trên ghế đá mà ngồi như bây giờ.
Cuộc sống những năm chiến tranh mang lại cho người Hà Nội bao nhiêu thói xấu. Để kịp về nơi sơ tán, trong những chuyến tàu vét, người ta trèo cả lên nóc tàu hỏa mà ngồi. Sau những ngày chầu chực không mua nổi cân gạo, lúc làm ra đồng tiền, nhiều gia đình đồng lòng xả láng một phen cho bõ đời, và thói quen tranh thủ hưởng thụ đã đến một lần là không chịu bỏ đi nữa.
Chiến tranh đầy bất trắc không biết sống chết lúc nào. Ai đó đã viết “ sau cái thời của không biết hy vọng, sẽ đến thời của không biết sợ hãi “. Khi mà buồn vui thất thường thành một cái gì kéo dài thì cả nếp sống tạm bợ lẫn triết lý sống gấp đều là không thể tránh nổi.
Cũng tương tự như vậy, khi nghĩ về văn minh công sở, đúng hơn nếp làm việc buông tuồng và đầy cảm hứng gia đình chủ nghĩa ở các cơ quan hiện nay, trong đầu óc tôi lập tức nhớ lại mấy năm sơ tán.
Đang làm ăn ở Thủ đô đàng hoàng nay kéo nhau về ở nhờ tận các làng quê heo hút, hồi ấy chúng tôi có muốn nề nếp cũng không được. Mỗi người với đủ lệ bộ ông bà vợ con bìu ríu “ nhảy dù “ xuống một nhà dân địa phương . Vừa làm việc vừa cởi trần thổi cơm hoặc trông con. Có làm việc với cán bộ các cơ quan khác thì ngồi bệt ngay đầu hè .
Tâm lý bảo thủ vốn có trăm ngàn bộ mặt. Trong khi đi xe máy thậm chí lái ô tô, nhiều người chúng ta hôm nay vẫn tham gia giao thông bằng tâm lý người đi xe đạp.
Mấy chục năm chiến tranh qua đi, nay đã sang thời hội nhập, Tây Tầu đầy đường, song người ta vẫn sống như thuở còn sơ tán làng quê, cái kiểu tư duy và thói quen hôm qua vẫn giữ nguyên xi như cũ.
Một mặt thì nhà nước thiếu sự chuẩn hóa đội ngũ công chức.
Mặt khác, tôi muốn nói đến cái sức ì trong ứng xử của mọi người hiện nay.
Trước khi gia nhập vào hàng ngũ cán bộ, cả các thủ trưởng – mà bây giờ người ta quen gọi là sếp -- lẫn các nhân viên đều không được trải qua huấn luyện sát hạch gì cả, chỉ thấy người ta bảo mình phải làm việc chứ không thấy ai yêu cầu mình phải thế nào. Ngay kỷ luật công việc còn thiếu, còn không rành mạch, nói chi là kỷ luật sinh hoạt. Không ai biết thế nào là phải. Nhất là không ai nhắc nhở nổi ai. Có vấn đề gì thì cười trừ với nhau là xong. Đã “làm luật” với nhau như thế , có không buông tuồng bừa bãi mới là chuyện khó hiểu.
Khổng Tử vốn nổi tiếng về việc đề cao chữ lễ trong xử thế. Ông bảo đến đâu chiếu trải không ngay ngắn ông không ngồi.
Cái sự nghiêm túc này đẻ ra một loại người mà các cụ ngày xưa gọi là kỹ tính. Họ không chịu qua loa tạm bợ trong bất cứ việc gì.
Người xuề xòa bảo đó là ảnh hưởng phong kiến và không theo. Người tân tiến thì cho rằng tự do mới được coi là tiêu chuẩn số một của xã hội hiện đại. Họ tuyên ngôn : phải nghĩ những chuyện to lớn cơ.
Từ những năm chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm có một tổng kết thú vị. Với đám lúc ấy còn trẻ là chúng tôi, ông bảo thời nào người ta càng hay nói chuyện lớn lao thì càng hay làm khổ nhau bằng những chuyện lặt vặt.
Trước sau cái nếp sống buông thả trong xã hội cũng tìm được cách thấm vào từng gia đình.
Và đấy là lúc trong cuộc đời “sống chung” với cái sự luộm thuộm bừa phứa , một số người mới thực sự ngấm đòn. Bề ngoài họ tiếp tục tự nuông chiều mình, song tôi biết nhiều người đang âm thầm đau khổ . Ở nhà họ, con cái còn liều lĩnh cẩu thả hơn chính họ nữa.
Lúc tâm sự riêng tư, tôi thường nói với những người quen tỉnh bơ này: trong cái việc nâng cao văn hóa văn minh công chức, chính là chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc sống riêng ở tổ ấm nhà mình. Giữa công việc và gia đình, giữa người thân và xã hội, cái sợi dây liên hệ nhiều khi ngắn lắm.

ĐÁM ĐÔNG & CÁCH SỐNG HUNG HÃN

1
Một cảnh tượng tương tự đã từng xảy ra sáu năm trước - ngay khi được đọc tin về những hành vi thiếu văn hóa tại tại lễ hội Hoa anh đào, tôi nhớ lại một vụ bê bối khác.
Hội đền Hùng mùa xuân năm 2002 thường được ghi nhận với việc làm ra một chiếc bánh dày 1,8 tấn . Ngày 9-3 âm lịch, trên đường chuyển đến nơi hành lễ, chiếc bánh bị cả trăm người xúm quanh xô đẩy dằng xé. Bà con đi hội đã tự tiện “thụ lộc”. Trong khoảng hơn một giờ đồng hồ, từ 10 đến 11.30 h, chiếc bánh “bốc hơi” hoàn toàn. ( Báo Tiền Phong ra ngày 22-4-2002 ).
Lùi về thời trước, có lần đọc báo Phong Hóa, tôi đã thấy các nhà văn Tự lực văn đoàn kể chuyện đám công tử Hà Nội đi Hội Lim Bắc Ninh toàn lo chuyện đánh nhau và giở trò gỡ gạc kiếm chác -- chữ hồi ấy gọi là chim gái.
Bởi vậy trước cảnh tượng ở triển lãm Giảng Võ, tôi không lấy làm lạ. Những gì xảy ra ở đây chỉ là một thứ đỉnh lũ của những cơn cuồng vọng hung hãn tự do quá trớn.
Hàng ngày ta đã bỏ qua bao sự việc tương tự. Hàng ngày thấy những mầm mống của nó, ta coi thường và mặc kệ. Theo nghĩa này, không phải chỉ những người đã trực tiếp vào hái hoa bẻ cành mà tất cả chúng ta đã có lỗi .
Trong số những cuốn sách giúp tôi xem xét đời sống, có cuốn Tâm lý đám đông của Gustave Le Bon( viết từ 1905). Tư tưởng chính của cuốn sách: Đám đông thường bị vô thức lôi cuốn. Chính trong đám đông, con người ta bị kích động. Những gì đen tối trong họ bùng phát. Họ trở nên hung hãn liều lĩnh bất chấp mọi chuẩn mực.
Đọc G.Le Bon rồi, tôi không ngạc nhiên nữa.
Tự dăm nay, ở Hà Nội gần như tôi lảng tránh các hội hè triển lãm, ở đó tôi chỉ thấy những đám đông hỗn tạp ồn ào, nó làm tôi buồn thêm về sự xuống cấp của con người. Những điều tưởng như chỉ đúng với xã hội nào khác, hóa ra rất đúng với chúng ta. Thậm chí có cảm tưởng nhà tâm lý học người Pháp viết riêng cho chúng ta nữa.
Từng chi tiết một trong vụ hoa anh đào này đáng để chúng ta dừng lại suy nghĩ. Một thanh niên khi được nhắc nhở đừng làm bậy nữa chỉ bảo “Bình thường thôi”. Một người phụ nữ khi cầm hoa trên ta “bị ‘ chụp ảnh, hồn nhiên nói với con “Ngày mai mẹ sẽ lên báo” ( trích từ báo Lao Động điện tử). Nếu câu nói thứ nhất nói về tính phổ biến của hiện tượng thì câu nói thứ hai ghi nhận một tình trạng tâm lý đáng lo hơn. Con người hôm nay làm việc xấu một cách có ý thức. Họ đã trở nên chai lì. Đối với họ không còn gì là thiêng liêng nữa .
Ai đọc báo chí phương Tây, hẳn thấy những biểu hiện này không phải là quá hiếm hoi với con người trong xã hội hiện đại. Nhà văn Italia U.Eco từng cảnh báo bên cạnh con đường nhân bản, con người đang phát triển theo cái hướng phi nhân. Trên tờ Tin nhanh ở Pháp 1991, nhà triết học A.Gluckman nhận xét “Không gì không thuộc về con người mà lại xa lạ với con người hôm nay cả !“.
Tuy nhiên ở xứ mình , mọi chuyện như có gì đặc biệt hơn. Ba mươi năm, cuộc chiến tranh khủng khiếp bòn rút trong con người gần hết điều tốt đẹp và để lại bao mầm xấu. Tiếp đó lại là ba chục năm vật lộn để sống, mà một trong những nội dung chủ yếu là cuộc truy tìm mọi sự chơi bời hành lạc hưởng thụ lâu nay không được hưởng. Nhiều chuẩn mực sụp đổ, trên nhiều lĩnh vực, xã hội rơi vào tình trạng mà các nhà xã hội học gọi là loạn cương ( anomia). Thiếu lý tưởng, mất lòng tin vào tương lai, từng người tự thả lỏng mình. Chúng ta nuông chiều chúng ta một cách vô lối . Mọi biểu hiện tha hóa biến chất xảy ra hàng ngày sẵn sàng được tha bổng nếu giả vờ hối hận. Tất cả đã chuẩn bị cho những Đền Hùng 2002, Giảng Võ 2008.
Không việc gì phải quá hoảng hốt. Cần thiết là nhân đây cả xã hội cùng đặt lại vấn đề về chính mình. Tôi biết nhà xuất bản trường Đại học Bắc Kinh từ đầu 2000 có cả một xê-ri sách hướng tới đại chúng Trung Hoa đông đảo mang tên “ Giáo dục tố chất nhân văn “. Các ngành truyền thông ở VN cũng đến lúc phải lo vấn đề có tính đại cục đó .

Hà Nội 9-4-08

SỐNG TRONG GHEN GHÉT ĐỐ KỴ


Mấy năm 1986- 1989, tôi cùng hàng chục vạn người Việt làm việc ở Nga. Chúng tôi được trả lương bằng đồng rúp. Nhưng không thể mang tiền về tiêu ở Hà Nội.
Để giúp đỡ gia đình, cách duy nhất chúng tôi có thể làm là kéo nhau đi mua hàng. Hàng ngày những cái đầu đen tỏa ra khắp các cửa hàng Moskva. Các thứ máy khâu bàn là bếp điện vòng bi… trở thành những cái đích tuyệt vời để chúng tôi theo đuổi, chiếm lĩnh.
Mà thời ấy, khốn khổ nước Nga cũng thiếu hàng trầm trọng. Chỗ nào cũng xếp hàng. Vèo một cái hàng đã hết. Có người mua được, người không. May mắn của mình nghĩa là bất hạnh của kẻ khác. Giữa những người Việt cùng đi mua hàng tự nhiên là hình thành một sự thù ghét.
Khi mới sang, bắt gặp một đám người mình đánh hàng, tôi còn lớ ngớ nhờ họ chỉ dẫn. Sau vài lần hỏi mãi mà chỉ nhận được những câu trả lời lăng nhăng, tôi hiểu rằng nếu mình cũng đến mua thì họ hết nguồn. Hẳn họ không thích thú gì trước sự có mặt của kẻ khác.
Đối diện với bản thân, tôi nhận ra chính mình cũng đã có cái tâm lý tương tự . Nguyên tắc không ai bảo ai được toàn thể mọi người tự nguyện thực hiện. Nhiều khi nhìn nhau ở xa đã thấy ngán ngẩm.
Quay trở về “ốp" - nơi ở tập thể, nhìn những cộng đồng dân cư khác thấy thèm. Cả người những nước nghèo hơn mình người Lào người Triều tiên … sao họ có thể thương yêu nhau hơn người mình.
Còn người Việt thì chỉ thấy đồng bào là những kẻ cạnh tranh, là kẻ mua mất thứ hàng mình có thể mua, tóm lại là một đối tượng để ganh ghét.
Chúng tôi thấy xấu hổ vì cách sống cách nghĩ ấy, nhưng cuộc sinh tồn đòi hỏi, trước sau đâu vẫn đóng đấy, và chỉ đành nhủ thầm đây đã là thứ di truyền trong máu mất rồi, không ai bỏ nổi.
Ở đâu con người cũng nói “Đời là một cuộc đấu tranh”.
Ngoài đấu tranh với thiên nhiên, cái triết lý đấu tranh nói ở đây thường được hiểu là đấu tranh với những đồng loại và cuộc đấu tranh này được biểu hiện với vô vàn sắc thái kỳ lạ.
Trong con mắt Bá Dương,” bất kể ở chân trời góc bể nào, hễ có người Trung quốc là có cấu xé lẫn nhau “. Để tồn tại , họ phải thường xuyên tự nhủ lúc nào cũng có người hại mình. Lý Tôn Ngô tổng kết lịch sử Trung quốc cho rằng những người thành công đều là những người mặt dày tim đen. Mặt dày là hoàn toàn vô lương tâm, tim đen là tuyệt đối tàn nhẫn.
Không hoành tráng lắm, song ở người Việt, cuộc đấu tranh này lại hiện ra với vẻ dai dẳng và rộng khắp. Theo Edmond Nordemann “Cuộc đấu tranh vì sự sống, mặc dầu đã được vẻ thờ ơ của phương Đông làm dịu bớt, vẫn mang tính chất khốc liệt rõ ràng hơn tất cả mọi nơi khác" (Quảng tập viêm văn – tài liệu đã dẫn ở một bài trước)
Cho đến thời đương đại, nhận xét này vẫn còn ý nghĩa của nó.Nam Cao viết rằng hạnh phúc là một cái chăn quá hẹp. Nói thế vẫn là quá hiền. Hạnh phúc có nhiều nghĩa mà nghĩa đầu tiên, đơn giản nhất là sự tồn tại. Sống sót mới là động cơ đánh thức nỗi niềm yêu ghét ghê gớm của con người.
Trong Những bước đường tư tưởng của tôi, Xuân Diệu kể lại một lần khoảng 1942 theo xe lửa dừng lại ở một vùng đói Quảng Bình, ông chứng kiến cái cảnh đứa bé ba tuổi giậm chân bắt đền người mẹ : “Nhả ra! trả đây!”.
Thì ra người mẹ lúc cho con ăn, đói quá,không tự chủ được, trót ăn mất của con mấy thìa cơm. Mà đứa trẻ biết.Nó la hét như thế hàng mười lăm hai mươi phút.
Lúc bấy giờ ám ảnh tồn tại đã thắng mọi thứ tình cảm nhân bản khác.
Tại sao có hiện tượng trên? Từ Darwin đến Freud, các nhà tư tưởng vĩ đại đều đã xác định: Đấu tranh trong loài là khốc liệt nhất.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu từng dẫn lại một nhận xét mà ông cho là cực kỳ thông minh của Hàn Phi Tử: “Người muốn giết vua nhất là hoàng hậu và thái tử.”
Có điều lâu nay trong xã hội Việt, chúng ta quen sống bằng một ảo tưởng ngược lại . Toát lên qua ca dao tục ngữ, là cái huyền thoại người nghèo thường biết đùm bọc nhau, chỉ có kẻ giàu mới ác. Song trong thực tế, người nghèo cũng ác, có khi càng nghèo càng ác .
Tại sao? Theo các nhà xã hội học, ở đâu nghèo về vật chất,ở đấy cũng có sự nghèo hèn về tinh thần, và đặc điểm chính của người nghèo là dễ bị tổn thương.
Nghèo ở đây còn có nghĩa là không có khả năng thay đổi đời mình.Trong một xã hội tiểu nông cái mà mội người đều biết làm thì luôn luôn thừa. Cái mà mọi người cùng cần thì luôn luôn thiếu. Hàng thịt nguýt hàng cá. Hai gái lấy một chồng. Bởi chúng ta quá giống nhau nên xảy ra tình trạng như vậy.
Trong giải bóng đá ngoại hạng VN, từ lâu tôi đã nghe nói đến một tình trạng kỳ lạ: Hình như người ta sợ vô địch. Tới bản tin thể thao trên VTV1 tối 27/9/2007, một nhà bình luận cho biết thêm: chỉ những trận cầu play-off mới đáng xem. Bởi đó là những trận người ta phải loại trừ nhau một sống một còn.
Cả hai phương diện trên của bóng đá cũng là tinh thần chung chi phối cuộc sống hôm nay, ở các mặt khác.

Bảy bước tới tha hóa

Mỗi chúng ta đã tự đánh mất bản thân như thế nào?

Hồi nhỏ, cũng như một số bạn bè cùng tuổi, tôi là đứa trẻ đãng trí, hay đánh mất những thứ lặt vặt: khi cái khăn mùi xoa, cái mũ, khi quyển truyện hoặc cái bút chì. Thông thường bố mẹ ở nhà cho qua không mắng mỏ gì đáng kể. Nhưng đâu một hai lần, tôi nhớ không những bị đánh cho mấy roi cứ gọi là quắn đít, mà còn bị hỏi căn hỏi vặn:

Mẹ đã nhắc con giữ cẩn thân cơ mà.
Chạy nhảy thế nào mà đánh mất, kể lại xem nào.
Thử nhớ lại xem, con đánh rơi ở đâu? Con đã để ý đi tìm chưa?....

Đến bây giờ tôi cũng không nhớ lần ấy đánh mất cái gì, chỉ đoán chắc là mấy thử đắt tiền lắm, chứ không phải ba cái đồ vớ vẩn như mọi khi. Người ta chỉ phải suy nghĩ về sự mất mát khi cái bị đánh mất được coi là quan trọng.

Liên hệ tới chuyện ngày nay:

Niềm thiết tha với cái tốt cái đẹp vốn nằm trong tâm trí chúng ta từ thuở thiếu thời, khi đang còn cắp sách đến trường. Mấy chục năm nay, Nhà nước cách mạng cũng luôn luôn kêu gọi mỗi thành viên của xã hội gắng trau dồi đạo đức. Câu nói của thầy Mạnh "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thường được nhắc nhở vì trong một hình thức cũ, ló lại diễn tả tốt nhất nội dung chủ yếu của đạo đức mới - sự vững vàng của nhân cách. Nhưng liệu có thể nói mỗi người chúng ta đã làm được điều chúng ta mong mỏi?

Giả sử bây giờ, ra giữa buổi họp, tôi bảo ông nọ bà kia là thoái hoá biến chất, mọi người sẽ cho tôi là có hiềm khích gì đó với họ, nên mới ăn nói sỗ sàng như vậy. Nếu tôi lại mạnh mồm khái quát rằng nay là lúc không ít người trong chúng ta đang hư hỏng đi, thì người ta sẽ bảo tôi là liều lĩnh vô căn cứ, là không có cái nhìn toàn cục, không thấy "mặt tốt là chủ yếu”.

Nhưng nhiều lúc ngồi một mình tỉnh táo, đối diện với lương tâm, hẳn nhiều người chúng ta phải công nhận là quanh mình số người hiền lành thánh thiện ngày một ít, số khôn ranh kiếm chác ngày một nhiều thêm. Và tự ta nữa, nghiêm khắc mà nói, ta cũng đang sống không phải như ta mong muốn. Ở đây không nói tới những tội lỗi đã thành danh mục quản lý của pháp luật, mà chỉ nói tới những thói xấu nho nhỏ những thói xấu vẫn bị coi là không đáng kể, và dễ bị bỏ qua: Xoay xỏa vụ lợi. Làm dở báo cáo hay qua loa vô trách nhiệm. Khéo léo tô vẽ mình trước cấp trên. Hùa theo đám đông, nói cho đám đông vừa lòng, chứ không dám nói sự thật.. Có phải là không ít thì nhiều, hàng ngày chúng ta đã để cho những thói xấu đó lộng hành? So với con người lý tưởng mà ta muốn noi theo, khi bước vào đời, thì thật ra ta đang xa dần, thậm chí có những phẩm chất tốt mà ta có từ lúc còn trẻ và cứ tưởng giữ được mãi, bây giờ đã bị đánh mất.

Nay không còn là lúc sợ ai lục vấn mình như cậu bé năm xưa nữa. Nhưng có lẽ, với tư cách người có học, sống nhiều bằng ý thức, cũng nên quan sát chính mình xem xem một quá trình tâm lý như thế nào đã xảy ra, khi ta tự đánh mất một phần tốt đẹp ở con người mình như vậy.

Dưới đây là một vài nhận xét tôi rút ra từ kinh nghiệm bản thân và qua quan sát những người gần gũi chung quanh:

1. Sự kiếm sống hàng ngày là một khái niệm lâu nay chúng ta hay lẩn tránh và nó chỉ tồn tại như một giá trị ẩn, không được mang ra tính toán công khai. Nhưng phải nhận nó vẫn là nhu cầu có thực, hàng ngày gây sức ép với mọi người. Có nhiều việc ta biết là trái đạo lý song vẫn phải làm, chẳng qua chỉ là nhằm kiếm thêm ít tiền bạc, để cùng với đồng lương còm cõi, duy trì sự sống của bản thân và gia đình.

2. Các thói xấu lấn lướt ta mỗi ngày một ít. Thời gian đầu ta thường vừa làm vừa tự nhủ: chỉ chấp nhận đầu hàng lần này nữa thôi, sau sẽ không bao giờ tái diễn! Nhưng càng về sau, sự dằn vặt càng thưa thớt đi. Đời sống hàng ngày mang lại bao nhiêu căng thẳng mệt mỏi, khiến cho mỗi người chỉ có cách trượt theo thói quen và tránh nhất là gây thêm cho mình những phiền phức.

3. Có một điều ta thường viện ra để an ủi, ấy là khi thử đưa mắt quan sát thấy không phải chỉ có riêng mình làm bậy, mà chung quanh, cả những người có uy danh hơn, có trách nhiệm hơn, cũng đâu có giữ được lý tưởng - "Hơi đâu gái goá lo việc triều đình" - đấy là lý lẽ của những cái đinh ốc bé nhỏ.

4. Khái quát hơn. quả thật có nhiều việc thấy trái với lương tâm ta vẫn cứ làm, vì xem ra chung quanh mình, mọi người đều hành động như vậy.

Mà cảm giác sống theo tập thể ăn vào ta rất nặng. Ta sợ trở thành đơn độc lại càng sợ mang tiếng là chơi trội, dám khác mọi người(!).

5. Người ta ai mà chẳng vừa sống vừa trông trước trông sau xem cách sống của mình được đánh giá ra sao, và được đền đáp ra sao. Đến lúc thấy bao nhiêu cố gắng của mình cũng vô ích, những người tốt như mình thường thua thiệt, còn những kẻ xấu cứ được đủ thứ và lại leo cao mãi lên thì đành ngán ngầm buông xuôi (Sau khi phát hiện điều này, một số sẽ dãy dựa cốt vớt lại ít quyền lợi mà họ cho rằng họ đáng được hưởng. Từ ấy trở đi, họ dám sống rất làn bạo).

6. Chắc chắn trong ta không bao giờ chết hẳn con người lý tưởng, con người tha thiết với sự nghiệp chung. Giả sử được xã hội dang tay dìu đỡ thì sau những lầm lỡ ban đầu, cũng dễ tu tỉnh trở lại. Nhưng mọi chuyện quá ì ạch. Có vẻ như điều mà xã hội mong đợi hơn cả ở các thành viên chỉ là những câu khẩu hiệu chung chung. Cái phần suy thoái trong ta chớp ngay lấy cơ hội thuận lợi đó. Nảy sinh tình trạng phân thân, sống một đằng, nói một nẻo và bởi lẽ, trước mặt bàn dân thiên hạ, giữa thanh thiên bạch nhật, ta vẫn luôn mồm nói điều tốt, nên càng yên tâm xoay xỏa kiếm chác trong bóng tối.

7. Đến lúc nào đó, ta chợt nhận ra "rằng quen mất nết đi rồi", có lẽ sẽ không bao giờ hoàn lương được. Sự lo sợ có tới (lo sợ chứ không phải hối hận) và để hóa giải, ta xoay sang cấu cúng, xin xỏ, hối lộ thánh thần. Mê tín chính là mắt xích cuối cùng của sự tự làm hỏng, nhờ cô mê tín, các khâu hoạt động khác có thể diễn ra một cách êm đẹp. Đại khái giống như một thứ bảo hiểm!

Khi một đứa trẻ đánh mất của quý gì đó, người ta phải căn vặn hỏi han xem quá trình đánh mất diễn ra như thế nào bởi nghĩ rằng qua đó, giúp cho nó biết tự giữ gìn của cải và từ nay trở đi không đánh mất nữa.

Quá trình tha hoá, quá trình tự đánh mất mình ở chúng ta có chỗ khác. Ai cũng chỉ sống một lần trên đời, cái gì mất đi thì vĩnh viễn không lấy lại được nữa.

Vậy cần gì phải mang bản thân ra mà tra khảo cho thêm rách việc?

Có thể có một số người đã nghĩ thế và họ có lý của họ. Nhưng trong bài báo này, tôi muốn để nghị một cách nghĩ khác: ít ra chúng ta cũng nên sòng phẳng với nhau. Sự đánh giá chính xác về bản thân nên được xem như một phần di sản của một lớp người đang sống để lại cho các lớp kế tiếp, và nếu như nhờ thế một phần, mà những người sau ta sống không giống ta, tức là ta đã trở nên hữu ích.

Biết mình biết người, tỉnh táo đi tới!

Bắt tay vào cuộc hội nhập là chấp nhận rằng chúng ta sẽ tham gia sân chơi lớn của thế giới. Điều cần thiết lúc này là soát xét lại mình, bàn bạc, học hỏi, rút kinh nghiệm, sẵn sàng làm lại mình nếu cần. Bởi mọi cơ hội chỉ có ý nghĩa khi người ta có một phương sách đúng, một chiến lược đúng để tận dụng được nó.

Học được theo người đâu có dễ

Hội nhập thường được hiểu theo nghĩa ban đầu là buôn bán làm ăn với nước ngoài. Trong quá khứ, việc này đã được làm thế nào? Bức tranh ngoại thương ở Đàng Trong các thế kỷ 17-18 trả lời cho câu hỏi này.

Mỗi lần nói đến Hội An, các nhà nghiên cứu đã say sưa xem như một dịp “xuất thần” chứng tỏ tinh thần cởi mở và năng động của dân ta. Chỉ một điều nhỏ bị “bỏ quên”: hoạt động lúc đó chủ yếu là từ ngoài vào, chứ không phải ta đi ra với người. Các cơ sở buôn bán ở Hội An phần lớn của người Nhật, người Trung Quốc. Sau khi họ rút đi, sự làm ăn cũng đình đốn luôn. Cả thế kỷ 19, nền ngoại thương VN lại gần như trở về với cái khung cảnh tầm thường tẻ nhạt, xứ ta quay lại vị thế một xứ biệt lập và ít hiểu biết về thế giới quanh mình.

Đọc sử tôi còn được biết thêm cái cách mà nhà nước bấy giờ quản lý ngoại thương. Một người Mỹ là John White kể về một chuyến đi khám tàu thu thuế của nhà đương cục hồi ấy. “Họ kéo nhau xuống hàng đoàn hàng lũ lính tráng quan lại, đi đầu là quan thanh tra và quan thu thuế, chật ních cả tàu. Nhưng trước khi bắt tay vào việc họ đòi mang rượu ra uống, và phải cung phụng cho mỗi người một số rượu lớn. Quát tháo cãi cọ om sòm. Không những đã mất cơm rượu cho bọn đó rồi trả thuế tàu vào, lại còn phải trả vài khoản bất ngờ nữa” (trích theo Nghiên cứu Huế, tập I.1999, trang 210).

Nhiều tài liệu lịch sử khác cũng kể quan lại được giao xuống tàu kiểm tra toàn lo nhòm ngó xin xỏ. Người ta không cho thì làm khó dễ. Người ta cho thì hi sinh cả lợi ích của nhà nước cũng không tiếc. Mọi thứ khôn khéo và hiệu quả do hội nhập lúc ấy chỉ mang lại một ít của cải cho các quan chức, chứ không phải là sự phồn thịnh của một nền ngoại thương và sự nảy nở một tư duy kinh tế.

Lỗi hệ thống

Tác giả Vương Trí Nhàn
Chuyện ngoại thương chỉ là một bộ phận trong câu chuyện dân ta quan hệ với người nước ngoài. Với thiện chí an ủi mọi người yên lòng khi bước vào một chặng đường xa, một số nhà nghiên cứu gần đây thường đưa ra những khái quát đại loại: “Lịch sử đã chứng minh người Việt có khả năng hội nhập rất khôn khéo, tài ba và hiệu quả” hoặc: “Dân ta tiếp nhận và tiêu hóa được tất cả những tinh hoa của nền văn hóa đến từ nơi khác, chắt lọc và hòa nhập vào cái của mình”.

Tôi thì nghĩ khác. Từng hiện tượng thông minh sáng tạo không thiếu, song xét toàn cục thì trong quá khứ, xu thế chung sống với thiên hạ ở ta rất yếu. Các ảnh hưởng nước ngoài vẫn tràn vào, ta đã tiếp nhận không thiếu một thứ gì, nhưng đó là theo bản năng chứ không phải được sự chỉ đạo của lý trí. Có thể tạm dùng lại ở đây cái từ đang được sử dụng: lỗi hệ thống. Cả tin và dễ dãi thì không được.

Nhưng ý niệm về quan hệ bình thường phải có mà ở ta lại chưa nảy nở. Cả một nhận thức đúng lẫn một chiến lược thích hợp đều thiếu. Cho đến đầu thế kỷ 20, những thế lực bên ngoài vẫn chỉ được dân ta xem xét với nhiều ngần ngại. Nếu không coi họ là kẻ thù xâm lược thì cũng chỉ nghĩ họ đến với ta để kiếm lợi. Không đặt vấn đề học hỏi một cách nghiêm túc, càng không biết tiêu hóa kinh nghiệm của họ từ đó sáng tạo ra cái của mình.

Đọc lại thấy tình hình này là dễ hiểu, vì mãi đến gần đây nó vẫn còn được tiếp tục.

Trung thực với chính mình

Để hội nhập tốt, không chỉ cần biết người mà còn phải biết mình. Điều oái oăm ở chỗ thông thường kẻ không biết người thì cũng không biết mình. Chúng ta cũng không phải là ngoại lệ.

Đạo diễn điện ảnh F. Fellini từng nhận xét về trạng thái của dân tộc Ý những năm 1930: “Người ta bảo với chúng tôi rằng chúng tôi là một dân tộc vĩ đại và hạnh phúc nhất. Chúng tôi tin ở điều đó, kết cục không còn biết gì về các dân tộc khác, cũng như về bản thân mình”. Ta cũng vậy, dù biết là không nên vậy.

Cảnh giác ngay với chính mình không bao giờ thừa. Trên tạp chí Tia Sáng số 11-2006, ở Tuổi Trẻ Cuối Tuần số ra 17-12 vừa qua, mục bàn tròn, tôi đọc thấy các chuyên gia kinh tế bàn nhau mấy việc:

1/ Rất mừng là chỉ số GDP ở ta tăng đều, nhưng để phát triển bền vững cần phải nhìn vào nhiều chỉ số khác, mà nếu tính theo kiểu đó thì ở ta lại có nhiều điều để e ngại.
2/ Trong cách tính ở ta đang có xu hướng vơ vét để tính sao càng cao càng tốt. Có những sự tăng trưởng địa phương đã tính rồi, nhà nước lại tính lần nữa.
3/ Đã có những trường hợp chạy theo tăng trưởng bề rộng, như phong trào “mỗi ngày một công trình” ở Hà Giang, và lời cảnh tỉnh là đừng lặp lại bài học đó trên phạm vi toàn quốc.

Trong hoàn cảnh dư luận đang nao nức trước viễn tưởng đất nước “bay lên” với sự gia nhập WTO, những bài viết như trên cho thấy một sự tỉnh táo bắt đầu. Không phải cứ biết bệnh mình là đã chữa được. Song công khai minh bạch bệnh trạng đi đã, rồi thành thật tính chuyện chữa dần, có lẽ vẫn hơn.

Hội nhập giữa đời thường

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn trong Một thời để mất (hồi ký viết về Nguyên Hồng, in lần đầu 1995) từng kể hồi kháng chiến chống Pháp, có lần Xuân Diệu đến Trường Văn nghệ Nhân dân nói chuyện thế sự "Các đồng chí có biết bên ấy chúng nó mặc quần áo bằng gì không? Bằng ny-lông! Quần áo ny-lông". Bùi Ngọc Tấn và bè bạn ngồi nghe hết sức xúc động. Họ nghĩ. Thật là một lũ điên loạn trụy lạc. Mặc quần áo như vậy có khác gì cởi truồng. Xuân Diệu bồi thêm: "Còn quần áo may bằng vải thường các đồng chí có biết nó in gì lên đấy không? Không phải in hoa! Nó in cả một tờ Nữu ước thời báo với đầy đủ ảnh, măng-sét, tít lớn tít nhỏ tin ngắn tin dài lên mặt vải. Còn Tổng thống ở bên Mỹ hết nhiệm kỳ không còn làm Tổng thống nữa các đồng chí có biết nó đi làm gì không? Đi quảng cáo cho các hãng buôn kiếm tiền!". Và phản ứng lần này của đám nhà văn trẻ như Bùi Ngọc Tấn đang ngồi nghe là: "Chúng tôi lại ồ lên. Cái bọn người quái đản ấy cần được cải tạo".

Nhắc lại những chuyện này để thấy ngày xưa chúng ta quá xa lạ với thế giới. Ngày nay ta đã hiểu biết thêm rất nhiều. Thế nhưng cũng phải nhận rằng tình trạng ngây thơ hôm qua, dưới những hình thức khi tinh vi hơn khi thô thiển hơn, vẫn còn rải rác kéo dài, không phải chỉ trong thời kỳ từ 1954 trở về trước mà tới cả thời gian 1965 - 1975 ở miền Bắc và sau 1975, trên phạm vi toàn quốc.

Sự xâm nhập vào đời thường hay là mức độ sâu sắc của hai lần tiếp nhận

Những Chuyển biến hôm nay - những biến chuyển mà trong cuộc hội nhập đã diễn ra hai chục năm và được đánh dấu bằng việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Theo tôi phải xem đây như một nét mới của người Việt hiện đại.

Một lần vào mùa hè, tôi ra đường Hàm Long ở Hà Nội chọn mua cho gia đình mấy cái ghế loại nửa nằm nửa ngồi. Người bán hàng chỉ vào một dãy ghế ngổn ngang, nói với tôi:

Cái thứ khung nhôm và thân đan bằng sợi nhựa kia là ta mới học theo kiểu nước ngoài. Nhưng chính mấy người Âu họ lại thích thứ hàng thuần gỗ này hơn.

Trong một lời chào hàng như thế, tôi nhận ra một điêu: nay là lúc cái gì người ta cũng tính tới các tiêu chuẩn nước ngoài. Tốp thanh niên nọ hết chuyến tay nhau các băng nhạc lại ngồi bàn nhau các mốt quần áo mới. Các ông già bà già rủ nhau đi du lịch. Phong trào viết blog lan sang đến đám thiếu niên 13 - 14 tuổi. Một lần về chợ Vinh tôi thấy người ta bày bán cả cuốn hồi ký của Beckham như bán đôi giày, cái mũ.

Từ chuyện làm ăn kinh tế xuất khẩu nhập khẩu, sang chuyện sinh hoạt đời thường, hội nhập đang diễn ra theo quy trình phổ biển như thế. Và từ sinh hoạt đời thường, sẽ ngấm cả sang cách nói cách nghĩ, quan niệm chính về đời sống nữa.

Trong tâm trí nhiều người, Hoài Thanh cháu nhà phê bình gọi ra phong cách của nhiều tác giả nhất là những người trong phong trào Thơ mới: "Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ. Ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư. Ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ, ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận".

Song khi khắc họa cái phần tiếp nhận của văn hóa Việt Nam từ văn hóa phương Tây đầu thế kỷ XX, Hoài Thanh cũng hiện ra như một nhà nghiên cứu văn hóa sâu sắc. Đây là một đoạn trong bài Một thời đại trong thi ca ghi lại cái tình trạng nhân thế của xã hội Việt Nam hồi ấy: "Chúng ta ở nhà Tây đội mũ Tây đi giày Tây, mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ôtô, xe lửa, xe đạp. Nói làm sao cho xiết những thay đổi về vật chất phương Tây đưa tới giữa chúng ta”.

Nếu thay mấy chữ đồng hồ, ôtô, xe lửa... nói trên bằng tivi, tủ lạnh, mobil, email, thị trường hứng khoán, quota… thì thấy sự chuyển biến ngày nay có khác gì ngày xưa?

Bởi vậy chúng ta hoàn toàn có thể kết luận như Hoài Thanh rằng: “Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước"

Từ những chi tiết bé nhỏ, lặt vặt tác giả Thi nhân Việt Nam 1932 - 1941 đi tới những khái quát mà đọc chểnh mảng thì thôi, chứ đọc chăm chú hẳn ta phải giật mình: "Một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ và có ngày ta sẽ thấy nó thay đổi cả quan niệm của phương Đông...

Phương Tây bây giở đã đi tới chỗ sâu nhất trong tâm hồn ta. Liệu ai có thể cả quyết rằng những biến động mà Hoài Thanh đã ghi nhận ấy không phải là đang đến với chúng ta hôm nay, ở nhưng mức độ khác nhau?

Đằng sau bệnh trạng là sự ham muốn thay đổi

Với người ít được tiếp xúc thì sự choáng ngợp trước những cái lạ không phải là một cái gì khó hiểu. Đang phổ biến một thứ bệnh mà người ta gọi nó bằng nhiều cái tên: học mới, học lỏm, đua đòi, bắt chước không phải lối, người ác khẩu một chút thì gọi là rửng mỡ, đú đởn, mất nết, giẫm phải phân người khác... Có điều, cùng với thời gian, rồi cái hay cái dở sẽ được sàng lọc. Giúp xã hội có định hướng đúng đan trong hội nhập là điều người ta trông chờ ở các nhà hoạt động văn hóa, các trí thức.

Bắt chước một cách lố bịch chẳng qua là bản lĩnh ta còn non nớt. Song phải nhận thấy rằng muốn bắt chước tức còn muốn tự mình khác đi. Dẫu sao còn hơn đóng cửa cam phận nghèo hèn mãi mãi, rồi lại tự lừa mình, tự cho là mình hoàn chỉnh rồi, mình hay ho tuyệt vời lắm, thiên hạ không ai ra gì và không cần ngó ngàng đến ai cả.

Cái đứng đằng sau luật pháp

.. Ở cái chỗ luật pháp dừng lại, người ta vẫn luôn luôn có thể suy nghĩ dưới góc độ đạo đức hoặc văn hóa để trước tiên là hiểu hiện tượng, sau nữa là tìm cách khắc phục nó...


Luật pháp thường được định nghĩa trong các từ điển như là những quy định mọi người nhất thiết phải tôn trọng trong khi đạo lý suy cho cùng chỉ có nghĩa là những ước lệ hợp với lương tâm cho con người lại được xã hội thừa nhận và khuyến khích nên theo, ai theo được có nghĩa đấy là người tốt. Một hành động bị coi là phạm pháp, khi nó xâm phạm đến quyền lợi hoặc của cả cộng đồng hoặc của các thành viên trong cộng đồng, do đó, phải bị trừng phạt. Còn một hành vi bị coi là thiếu đạo đức tức là đã bị cộng đồng lên án. Có thể bảo sự lên án này chỉ dừng lại ở phạm vi một dư luận, song đối với người có lương tâm trong sáng, đã là một cái gì rất nặng nề. Lẽ tự nhiên là trong việc phân biệt một hành vi đạo đức và một hành vi phi đạo đức, một cộng đồng đã tự nói về mình rất nhiều. Sau hết, cũng nên ghi nhận rằng mặc dù những tiêu chuẩn đạo đức thường có tính nhân bản, nghĩa là chung cho mọi dân tộc, nhưng đi vào cụ thể ở mỗi dân tộc nó lại mang những sắc thái riêng. Đến đây, bắt đầu thấy xuất hiện vai trò của văn hóa, nó là lối sống, lối nghĩ, các quan hệ giữa con người với thiên nhiên và con người với con người, tất cả đã trở thành nền nếp ở từng dân tộc và làm nên sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.

... Thỉnh thoảng, tôi cứ phải giở sách ra để ôn lại những ý tưởng trên, nhất là gần đây, đọc báo chí, nghe đài, được biết thêm nhiều hành động mà chúng ta quen gọi là hiện tượng tiêu cực. Nhiều người nông dân hám lợi, mang bán thứ rau quả phun thuốc trừ sâu, săn vào gây ra độc hại. Các lò mổ bò mổ lợn thường là kém cỏi về mặt vệ sinh nghĩa là ủ sẵn bệnh tật hại người. Nhà máy, bệnh viện hàng ngày tống ra đủ thứ chất thải làm ô nhiễm môi trường. Rồi hàng hóa thì làm ẩu, cốt bán rẻ để cạnh tranh giá kể người mua mang về có không dùng được, thì cũng không quản ngại. Cho đến gần đây lại xảy ra những vụ tham nhũng ghê gớm, tham nhũng đến mức người ta tin rằng các đương sự phải mất hết lương tâm thì mới bảo nhau vét sạch tiền của nhà nước đến như vậy! Có biết bao hành động ngang tai trái mắt đang xảy ra chung quanh, và có cơ ngày một phát triển. Mà lấy luật pháp để trị nhau thì không phải dễ. Tội lỗi ở đây như cái cây, gieo mầm hôm nay, hôm sau mới “kết quả”, lúc bấy giờ người có lỗi đã cao chạy xa bay, ai làm gì nổi! Vả chăng, trong tình trạng xã hội hỗn hào, mọi người chen chúc nhau để sống, muốn lần ra đầu mới của cái ác sẽ gặp muôn vàn rắc rối, dễ gì bắt tận tay day tận trán để luận tội? Nhưng ở cái chỗ luật pháp dừng lại, người ta vẫn luôn luôn có thể suy nghĩ dưới góc độ đạo đức hoặc văn hóa để trước tiên là hiểu hiện tượng, sau nữa là tìm cách khắc phục nó.


Chắc chắn là không có gì khiên cưỡng khi gắn một số hiện tượng tiêu cực nói trên và các hành động tương tự với lối làm ăn (kèm theo là lối sống nếp nghĩ) có tự ngày xưa, khi người ta sống theo kiểu khôn vặt (ăn cỗ đi trước lội nước đi sau) và vô trách nhiệm (sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi) chỉ biết đến quyền lợi của gia đình mình (đèn nhà ai nhà nấy rạng), chỉ biết đến cái làng của mình là cùng (trống làng nào thì làng ấy đánh, thánh làng nào thì làng ấy thờ), ngoài ra, bỏ qua mọi chuyện, bởi “có chết thì cả làng cùng chết”. Tóm lại, đồng thời với việc truy cứu về mặt pháp luật, cần xem xét ngay cội rễ của các hiện tượng nói trên về mặt đạo đức – văn hóa, để bắt mạch cho trúng. Đến lượt nó, mỗi tội lỗi, và phản ứng trước tội lỗi – kể cả những tội lỗi nhỏ, hoặc quá tinh tế, pháp luật không kết luận nổi – lại cũng nói lên một điều gì đó về tình trạng tâm lý xã hội nói chung. Nếu như ở đây có sự dửng dưng, tức thờ ơ, mặc kệ kẻ có tội và không sao hình thành nổi dư luận cũng như không cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa dẫn đến tội lỗi, thì đó chính là một bằng chứng cho thấy sức khỏa tinh thần nói chung của xã hội đang có vấn đề, và sự chữa chạy cho mỗi cá nhân không thể kết quả, nếu không có sự chữa chạy cho cả cộng đồng nói chung.


Đang nghĩ vân vi như vậy thì gần đây, qua báo Nông thôn ngày nay, số ra 12.6.99, tôi lại được biết thêm về một hiện tượng phải nói là kỳ cục giữa công ty X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của mình. Như một phóng viên Nông thôn ngày nay nhận xét, đây quả là kiểu khủng bố chưa từng có ở Việt Nam. Sự việc “độc đáo” đến mức các nhà chức trách đang phải theo dõi để tìm cách luận tội cho chính xác. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nhiều bạn dọc của chúng ta, khi nghe chuyện, hẳn không khỏi nhớ tới những cách trả thù vốn có từ xưa, và còn lưu truyền lại qua lời đồn đại của dân gian; căm giận ai thì đi dò hỏi mồ mả ông cha người ta rồi đào lên để hạ nhục. Hoặc làm hình nhân thế mạng, viết tên kẻ thù của mình lên đóm rồi lấy kim châm vào chỗ hiểm và thuê thầy địa lý về yểm vào đất độc. Hoặc như trong truyện Tấm Cám, cái đầu của Cám sau khi chết được Tấm mang ra làm mắm để gửi về cho người mà Tấm vẫn gọi là mẹ ghẻ (cũng tức là mẹ đẻ của Cám). Thì ra, cái hành động kia không hẳn đã đơn độc như chúng ta tưởng tượng. Trong khi lên án nó và đồng tình với mọi sự trừng trị đích đáng, đồng thời phải thấy nó thuộc về một cái gì di truyền trong tâm lý xã hội, do đó, có khi hoạt động ngoài ý muốn từng con người cụ thể. Nói cách khác, trong cái hành động kỳ cục kia thấy có cả những căn nguyên văn hóa sâu xa (văn hóa ở đây không chỉ bao gồm tinh hoa mà như các nhà nghiên cứu khoa học xác định, còn bao gồm cả những cặn bã cần vứt bỏ). Và như vậy là trên đường suy nghĩ về hiện tượng tiêu cực, chúng ta có thể phần nào yên tâm vì đã lần đến đầu mối cuốic ùng, còn như việc lo chữa chạy thì sao, đấy lại là chuyện khác.


Chắc chắn, mỗi khi đứng trước một hiện trượng tiêu cực, lại còn lo lần ra căn nguyên đạo lý văn hóa của nó, công việc phải làm sẽ trở nên vô cùng bề bộn. Chẳng phải là lâu nay nhiều người chúng ta có thói quen suy nghĩ một cách đơn giản “truyền thống căn bản là tốt”, “đạo lý nhìn chung là lành mạnh”, để xuê xoa mọi chuyện. Nhưng chính bởi thế, nay lại chính là lúc xã hội phải lo nhận thức cho thấu đáo hơn. Bề bộn mấy thì bề bộn, để giải quyết đến cùng mọi chuyện tiêu cực, không thể có cách nào khác. Bởi các vấn đề đạo lý văn hóa không chỉ liên quan đến pháp luật mà còn liên quan đến mọi mắt xích khác trong guồn máy xã hội. Nói như một viện sĩ người Nga, ông D. Likhachev: Không có văn hóa, xã hội không thể trở thành xã hội có đạo lý.

Và nếu không có cả văn hóa lẫn đạo lý, thì mọi cải cách trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học đều trở nên vô nghĩa, tức không thể thực hiện.
Số lượt đọc: 2535 - Cập nhật lần cuối: 16/04/2

Tìm về văn hóa để hiểu hôm nay

BBC
07:28' PM - Thứ tư, 17/05/2006


"Nhân nào quả ấy" là một tập phiếm luận về văn hóa đương thời tổng hợp các bài viết ngắn của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn.

Ông đặt câu hỏi về tầm vóc văn hóa hay đúng hơn là sự thiếu văn hóa ẩn hiện đằng sau nhiều hiện tượng gây nhức nhối trong xã hội Việt Nam thời nay.

Đó là những tệ nạn từ hàng giả, chùa miếu giả, thói vô ý thức trong giao thông, tính sĩ hão trong giao tiếp, sự lộn xộn trong tiếng Việt hiện đại đến cách sống hời hợt, qua quít.

Theo ông, chừng nào chưa nhận ra bản chất của chính mình thì con người và xã hội Việt Nam còn khó mà sự sửa đổi để hội nhập với thế giới.

Vương Trí Nhàn: Các hiện tượng xã hội hiện nay ít được nhìn theo khía cạnh văn hóa. Ví dụ, hiện tượng PMU 18 gần đây, các báo phân tích chủ yếu về khía cạnh quản lý, pháp luật…Trong khi đó, tôi nghĩ rất cần có thêm cái nhìn về mối quan hệ giữa con người và tham nhũng, họ có suy nghĩ gì, họ là một kiểu người mới ra làm sao trong xã hội hiện nay. Những người như Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến…cũng có những quan niệm, triết lý sống của họ, và những cái đó thúc đẩy họ có những hành động như đã xảy ra.

Hiện nay, ngoài những hiện tượng có thể gọi là lớn, gây ấn tượng mạnh tức thời, thì ngay trong đời thường, có nhiều điều cần được quan sát, ghi chép và giải thích dưới góc độ văn hóa. Tôi rất thích đi vào những vấn đề như cái thật – giả, hay một chuyện giản dị như tiếng cười của con người hôm nay. Tiếng cười, tôi thấy nhiều lúc rất hời hợt, giả tạo.

Có nhiều vấn đề văn hóa hiện nay mà con người ít quan tâm, nhưng chúng đang chi phối đời sống, khiến chúng ta khó vươn tới một xã hội văn minh, hiện đại.

BBC:Trong một bài phiếm luận, ông có nói là cần thêm chất trí tuệ cho tiếng cười hiện nay. Vì sao lại thế?

Trong đời sống xã hội hiện nay, người bình thường rất hay cười. Mới đây có bài báo ghi nhận rằng người ta đang muốn “hài hóa” cải lương, một thể loại vốn bi lụy. Cái hiện tượng “làm gì cũng cười” trong xã hội bây giờ, theo tôi, phản ánh sự dễ dãi, hời hợt trong quan niệm, việc gì cũng có thể bỏ qua hay bằng lòng với nó. Đối xử với nhau, thì như một bài khác của tôi có nói, là diễn nhiều hơn thật.


Quan hệ giữa người với người hiện nay, theo tôi, nhiều khi không chặt chẽ, sòng phẳng rõ ràng. Nhiều người hiện nay cứ nói “chúng ta nên cười đi, cười cho thoải mái, vui vẻ,” và sinh hoạt trong cộng đồng hiện nay, theo tôi, thiếu một sự suy nghĩ, đào sâu vào các việc.

BBC: Nhưng một thời gian dài chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, trong đời sống xã hội thì có nhiều đè nén, khiến người ta khóc nhiều rồi. Phải chăng cái sự cười vô tư hiện nay cũng có lý do?

Hiện tượng này đang được xem là tự nhiên hiện nay. Nụ cười nhiều lúc trở thành sự tự vệ. Có thể số đông là như thế, nhưng phải có một thiểu số trí thức, tinh hoa suy nghĩ sâu sắc hơn. Mà tôi cho rằng dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, con người cũng không thể vô cảm với đời sống.

Nếu bảo là khóc theo cái nghĩa là bi quan, thì không phải; nhưng khóc theo cái nghĩa biết đau, muốn vượt qua hoàn cảnh, thì cái đó không bao giờ thừa.

Nếu cái cười ngày càng ăn sâu vào sự suy nghĩ thì đó mới là lảng tránh hiện thực, và nó sẽ góp phần kiềm hãm con người trong phát triển.

BBC: Nguyên nhân là do đâu? Trong sách của ông nhắc đến thời phong kiến, thực dân và sau này giai đoạn xây dựng XHCN. Vậy hóa ra lịch sử Việt Nam cứ vẫn như vậy?

Lịch sử có rất nhiều điều lặp lại. Vào những ngày VN ồn ào vụ PMU 18, tôi đọc lại lịch sử, thời chúa Trịnh thì thấy hồi ấy cũng loạn lắm. Cũng mua quan bán chức, các bên thừa hiểu rằng sau khi mua xong, thì vị quan kia sẽ thả cửa kiếm chác để hoàn vốn. Tình trạng thi cử giả tạo cũng đã xảy ra.

Một điều mà tôi e rằng hiện nay hơi thiếu là nhìn lại lịch sử. Quanh lịch sử, người Việt nhiều khi chỉ nghĩ đến những trang hào hùng thôi, mà quên đi những trang rất đau đớn. Ví dụ sau thời gian chống quân Nguyên, đất nước cũng rời rã, khó khăn, chứ chưa nói thời vua Lê chúa Trịnh thì tan nát rồi. Tôi thấy sự liên tục của lịch sử là điều rất cần được nhắc nhở để chúng ta không đặt mình ra ngoài lịch sử.

Nếu ta đặt mình bên trong lịch sử, thì sẽ hiểu hơn chúng ta ngày hôm nay, để tìm được động cơ vượt qua những khó khăn.

BBC: Trong các bài viết, ông cũng cho rằng người Việt, khi tiếp nhận các ảnh hưởng từ bên ngoài, thường không đến đầu đến đũa?

Có cuốn sách đã nhắc Việt Nam như là một trong 38 nền văn minh còn tồn tại, nhưng họ quên một điều là Việt Nam còn là một nền văn hóa vệ tinh. Văn hóa Việt Nam cũng được nói là vùng phi Hoa phi Ấn, tức là vùng giáp ranh. Mà theo tôi, những nước ở trong trường hợp này thường mang yếu tố bảo thủ.

Theo tôi, nên tìm cả trong lịch sử Việt Nam để hiểu về quan hệ giữa người bản địa và người nhập cư, hay việc người Việt Nam ít đi ra nước ngoài. Cái tâm lý ngần ngại khi bỏ làng, bỏ quê tạo ra cái bảo thủ trong việc tiếp nhận ảnh hưởng nước ngoài. Không có cái tinh, cái sáng, cái khôn ngoan trong tiếp nhận, và như thế, cản trở chúng ta trong việc hội nhập với thế giới.

“Để người Việt Nam tự nhận thức...”

Tự nhận là đang làm công việc “chưa ai khai phá”, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, “người hay nói về nhược điểm của đồng nghiệp”, đang góp nhặt những lời người xưa cảnh tỉnh về thói hư tật xấu của người Việt từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau và dự định sẽ in thành sách. Chúng tôi có cuộc trò chuyện với ông về công trình này.


- Thưa ông, tại sao ông lại nảy ra ý tưởng gom góp, cóp nhặt những lời người xưa cảnh tỉnh về thói hư, tật xấu của dân ta - Một ý tưởng ngẫu nhiên hay đã được dự định, thai nghén từ lâu nhằm gây sự chú ý với độc giả ?

- Tôi chịu tiếng là hay nói về nhược điểm của đồng nghiệp và tác phẩm của họ. Quả tình trong phê bình, tôi hay nhìn ra, nhìn thấy những tật xấu của anh em. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, có một số nhà văn lười đọc, viết ẩu lắm, đã thế còn xu nịnh, háo danh nữa... Đấy là điều không thể tha thứ được. Từ đấy suy rộng ra, chiêm nghiệm suốt một đời làm phê bình, tôi thấy có những vấn đề của con người Việt Nam mình: Không chỉ văn nhân, nhiều người ở nhiều nghề, nhiều lĩnh vực khác cũng có những thói tật này nọ. Tôi không muốn nói những tật xấu lặt vặt như xả rác bừa bãi, chửi đổng, nhổ bậy... ngoài đường mà vấn đề nằm ở tư duy, nếp nghĩ, nếp sống. Mà hạn chế ở tư duy, nếp nghĩ, nếp sống cản trở trực tiếp sự sáng tạo của mỗi người, sự phát triển của ta. Những điều này, các “cụ” cảnh tỉnh nhiều rồi nhưng chưa thành hệ thống. Tôi không định gây chú ý với ai mà chỉ nghĩ cần phải có một cái gì đó phản biện những thói hư, tật xấu đang diễn ra hằng ngày bây giờ chứ.


- Ông đã đề cập đến giới văn sĩ bây giờ, vậy xin hỏi ông chuyện ngoài lề một chút: ở Trung Quốc cũng đã có dạo xôn xao về một tác phẩm bình bàn về giới văn nhân, rằng văn nhân mắc tật coi thường nhau, háo danh, làm nghề ẩu... Văn nhân Việt Nam có như vậy không ?

- Ở Việt Nam, đặc điểm ấy rõ hơn ở Trung Quốc nhưng có thêm nhược điểm nữa là ít người có khả năng sống đơn độc, tư duy cái độc đáo.


- Ông là nhà phê bình, sống nhiều, trải nghiệm nhiều, sao ông không tự mình viết một cuốn mà phải góp nhặt lời của các cụ ?

- Anh nghe người nước ngoài chê ta anh có thích không ? Rất không thích chứ ! Điều đấy thật buồn cười. Có câu đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại. Nói về thói hư tật xấu trực tiếp khó lắm. Trong những cái xấu mà các cụ có nói thì cái xấu khó chịu nhất, làm cho nhiều cái xấu khác “kí sinh” được là không thích nói về tật xấu của mình. Vả lại, nếu tôi có viết thì cũng chỉ là những nhìn nhận cá nhân, có khi chưa phổ quát, chưa xác đáng, còn của các cụ sẽ hệ thống hơn và được kiểm nghiệm rồi. Mình tôi làm sao bằng các cụ, tôi là lớp hậu sinh nên chỉ dám làm công việc cóp nhặt những lời các cụ nói rồi biên soạn, sắp xếp lại.


- Tài liệu mà ông đang sưu tầm, biên soạn được lấy từ đâu, thưa ông ?

- Ngay trước tôi, các Giáo sư Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Hạo đã có nhiều công trình nói về thói hư, tật xấu của người dân ta. Rồi các cụ Ngô Đức Kế, Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố, Đào Duy Anh... cũng viết công phu lắm. Thói hư, tật xấu của dân ta được đề cập trong nhiều chuyện dân gian, trong cái mà chúng ta gọi là phôn-cơ-lo. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm tài liệu của người nước ngoài nữa.


- Tổng hợp những gì đang làm, theo ông đâu là mẫu số chung của những tính xấu của người dân ta ? Đâu là cái xấu trầm trọng nhất, ảnh hưởng đến sự phát triển của ta ?

- Đấy là thói đẽo cày giữa đường, lười biếng, qua loa, đại khái, tự ti nhưng che giấu bằng tự phụ... Cái xấu nghiêm trọng nhất là thiển cận, song lại nghĩ mình là trung tâm của thế giới. Người Việt Nam hiểu về thế giới rất ít. Đôi lúc, tôi tự nghĩ, nhiều người như cái cây mà rễ mọc nông. Hậu quả là bây giờ trong làm ăn ta thường thắng lặt vặt và... thua lớn.


- Đấy là đúc kết của các cụ. Song giữa cái xấu của người dân xưa với người dân nay, trong cơ chế thị trường với rất nhiều mặt trái, liệu có sự giống nhau ?

- Thực ra, trong văn hóa dân gian, trong thơ văn của các cụ tự cổ chí kim, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đến các nhà thơ sau này, đã có (những nhược điểm) con người Việt Nam hôm nay. Một cụ nhà văn đã nói người bây giờ cũng nhiều tật xấu như người xưa nhưng người bây giờ hay che giấu. Cái thói xấu đáng sợ nhất thời buổi này, theo tôi, là gian manh, ảo tưởng, hư hỏng và không biết sợ.


- Ông định lấy tên cuốn sách này là gì và dự định bao giờ sẽ ra mắt độc giả ?

- Cái tên sách vẫn còn chưa rõ ràng. Có lẽ phải mất vài năm nữa tôi mới hoàn thành, mặc dù đã có nhà xuất bản ướm mua. Tôi mất quá nhiều thời gian cho việc sưu tầm, biên soạn với mong muốn tổng hợp thật đầy đủ những lời răn dạy của ông cha. Tuy vậy, tinh thần chung của cuốn sách là người Việt Nam tự nhận thức. Vì vậy, tôi sẽ không làm theo kiểu “căn bản là tốt, bên cạnh đó vẫn còn...”. Cuốn sách mang yếu tố phê phán là chính song dựa trên tinh thần khoa học. Chỉ khi ta thấy thói xấu cắm rễ sâu ở trong ta như thế nào thì mới hy vọng thay đổi được. Không phải chỉ một người, hai người, anh hay tôi, mà cả xã hội phải tự nhận thức. Nói theo thuật ngữ y học là nhiều người cùng “hội chẩn”.


Người Nga cũng viết về thói xấu của mình để thay đổi mình đấy chứ. Gần ta, tương đối giống ta là Trung Quốc. Họ có Người Trung Quốc xấu xí, Người Trung Quốc tự trào, Trung Quốc dân tộc tính, Trung Quốc nhân cách bệnh trạng phê phán. Tác phẩm nhiều người đã đọc hoặc biết là AQ chính truyện của Lỗ Tấn đã có từ lâu đấy thôi.


Tôi tin sẽ có nhiều người đọc cuốn sách này.


- Xin cảm ơn ông !

Con người và tư tưởng thời bao cấp

Một cách làm sử

Mặt nghệt ra như mất sổ gạo. Một yêu anh có may ô -- Hai yêu anh có cá khô để dành -- Ba yêu rửa mặt bằng khăn--- Bốn yêu anh có cái quần đùi hoa. Những câu ca dao tục ngữ ấy được dịch hẳn ra tiếng Anh rồi được kẻ nắn nót cẩn thận trên những bức tường lớn, dưới đó là mấy gian trưng bày các hiện vật theo một cách thức mà trong điều kiện ở Hà Nội này phải gọi là “hoành tráng”. Đó là một căn hộ thu nhỏ với những vật dụng phổ biến một thời, kể cả cái hố xí được ngăn lại để nuôi lợn. Đó là một cửa hàng gạo có kèm theo thông báo tháng này bán gạo thế nào. Rồi một cửa hàng bách hóa với biển hiệu rỉ nát và những bao thuốc cũ mèm, tưởng như sắp mốc đến nơi.

Bộ sưu tập Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp đã trình diện như thế tại bảo tàng có uy tín số một hiện nay, Bảo tàng dân tộc học.

Một định hướng lớn của bộ môn lịch sử - văn hóa thời hiện đại là đi vào những chuyện có vẻ không có gì đặc biệt, nói theo nhà nghiên cứu F. Braudel, “những cấu trúc của sinh hoạt đời thường”.

Một lần tôi đọc tờ báo chuyên về điểm sách của Nga, được biết bên Moskva họ cho dịch cả những cuốn kể chuyện nước Đức thời Hitler, người dân thường đọc sách gì, xem phim gì, đi làm bằng phương tiện gì, học sinh học sử ở trường ra sao, mơ ước về tương lai ra sao. Còn bản thân người Nga cũng làm những cuốn tương tự, trình bày riêng về từng giai đoạn như các thập kỷ sáu mươi, bảy mươi thế kỷ XX.

Mà chẳng phải đến thế kỷ XX người ta mới làm vậy. Trung quốc, ngoài các bộ chính sử kinh điển, lại sớm có từ lịch sử ăn mày, lịch sử lưu manh, tới lịch sử trò chơi, lịch sử tuyển chọn người đẹp tiến cung (bản tiếng Việt mấy cuốn này đều đã in ra từ mấy năm trước).

Còn ở mình thì sao? Cách hiểu về sử quá cổ lỗ. Lịch sử thường chỉ dành riêng cho những chuyện quen gọi là thiêng liêng, và quá khứ thì cứ bị quấn vào hiện tại, để rồi người viết lúng túng như gà mắc tóc, làm khoa học cũng cũng vật vờ mà làm chính trị cũng nửa vời kiểu ăn theo, chẳng đâu vào đâu.

Giở lại cuốn Từ điển tiếng Việt của Văn Tân do NXB Khoa học xã hội cho in năm 1977, thấy mặc dù đã nói tới hiện tượng móc ngoặc đến những người chuyên nghề phe phẩy, song hai chữ bao cấp vẫn chưa có mặt. Người ta cũng có thể quan sát thấy tình trạng tương tự ở các từ điển từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài (chẳng hạn từ điển Việt Hán) cùng xuất hiện trong thời gian trên. Mãi đến từ điển Hoàng Phê mới thấy bao cấp được định nghĩa đầy đủ.

Từ nhiều năm nay trong xã hội đang tồn tại một tình trạng sinh hoạt tinh thần có thực -- những vấn đề có ý nghĩa nhận thức như “ta đang là gì”, “ở vào tình trạng như thế nào “ không được xã hội xem trọng ; mỗi khi cần thay đổi, chỉ thích bàn nên làm thế này thế nọ mà không chịu nghĩ lại xem bắt đầu từ đâu, dân mình đang có những chỗ hay chỗ dở ra sao. Nói chung nhiều lúc thích sống về phía trước hơn là quay lại chuyện cũ.Mà khi người ta không tự hiểu mình, không có sự đánh giá đúng đắn về quá khứ thì mọi hành động lao tới phía trước rất dễ sai lệch.

Xét trên mặt bằng chung đó, phải nói phòng trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp là một nỗ lực khai phá mở ra một hướng nhìn lại quá khứ rất có triển vọng. Nhờ sự gợi ý và giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế (1), lần đầu tiên có một cách tổng kết lịch sử theo cung cách rất hiện đại. Nhân triển lãm người ta có thể nghĩ lại về cách sống một thời, từ đó liên hệ với sự phát triển của con người trong hoàn cảnh của nền kinh tế thị trường hôm nay.


Mọi chuyện có từ bao giờ hay là một ít sự kiện “đã thuộc về lịch sử”


Sẽ là không thừa nếu “chính danh” một chút, tức tìm cách gọi đúng tên sự vật trước khi bàn về sự vật đó.

Về mặt thời gian, lẽ ra, cuộc trưng bày trên Bảo tàng dân tộc học phải mang cái tên là Cuộc sống Hà Nội thời hậu chiến. Còn nếu muốn đi vào thực chất kiểu sống những năm ấy, thay cho bao cấp, người ta có thể dùng những chứ khác như thời trì trệ. Bề nào mà xét thì cũng phải có cái nhìn bao quát từ chiến tranh chống Mỹ, và lùi lại cả giai đoạn từ sau 1954 trở đi.Trong cái mạch chung đó, giai đoạn sau từ 1975 cho tới 1986 chỉ là một phân đoạn --- tuy là phân đoạn chín nhất, bộc lộ một cách đầy đủ nhất bản chất của một giai đoạn phát triển xã hội.

Những ai từng đọc các bộ lịch sử Liên xô cũ hẳn nhớ, chủ nghĩa Cộng sản thời chiến từng được giải thích khá kỹ và tinh thần của nó còn chi phối tới khi nhà nước sụp đổ. Ở Trung quốc, những quan niệm cơ bản đã được thể nghiệm từ thời Diên An để sau 1949 triển khai ra toàn đại lục rộng lớn, kể cả Bắc Kinh Thượng Hải.

Còn đối với nhiều người dân Hà Nội, thì đó là cả một câu chuyện khá dài.

Trong hồi ký Cát bụi chân ai, Tô Hoài từng kể về không khí Thủ đô sau 1954:

“Chín năm ở rừng, không có lương, quần áo phát theo mùa, xà phòng tắm và giặt cũng lấy ở kho từng miếng, cơ quan sắm dao kéo húi đầu cho nhau. Trở lại thành phố, khó đâu chưa biết, nhưng thức ăn hàng hóa ê hề. Chiều chiều, uống bia Đức chai lùn bên gốc liễu nhà Thủy tạ. Nhà hàng Phú Gia vang đỏ vang hồng vang trắng vỏ còn dính rơm như vừa lấy ở dưới hầm lên. Áo khoác da lông cừu Mông Cổ ấm rực, người ta mua về phá ra làm đệm ghế. Hàng Trung quốc thôi thì thượng vàng hạ cám. Kim sào, kim khâu, chỉ mầu, củ cải, ca la thầu sắng xấu mỳ chính xe đạp cái xe trâu cao ngồng. Ca xi-rô ngọt pha vào bia cho những người mới tập tọng uống bia. Bắt đầu được lĩnh lương tháng. Không nhớ bao nhiêu, nhưng tối nào cũng la cà hàng quán được. Có cảm tưởng cả loài người tiến bộ đổ của đến mừng Việt Nam Điện Biên Phủ”(2)

Nhưng cái giai đoạn thoải mái mà Tô Hoài tả đó chỉ ngắn ngủi chốc lát. Hàng hóa nhiều không phải vì làm ra mà vì mới tiếp quản thành phố sẵn của kho đem bán. Nguồn hàng không phải tự mình làm ra ấy cạn rất nhanh. Và cái câu mà một tờ báo lấy làm đầu để “màu thời gian xám ngắt” (Tiền phong chủ nhật 17-6-06) bắt đầu từ đây.(3)

Trước tiên là sự thiếu thốn.

Nhiều mặt hàng thiết yếu sản xuất ra không đủ, phải bán nhỏ giọt mà là nhỏ giọt theo kiểu người thời nay khó tưởng tượng được. Sách Kinh tế Việt nam 1945-2000 có chụp lại thông báo của Sở thương nghiệp Hà Nội 11-1956, trong đó nói rõ các đại lý diêm được “nâng mức bán lẻ từ một đến năm bao”, tức là mỗi người được mua năm bao sau một lần xếp hàng. Đây nữa, một ít con số mà tôi “làm cái sái nhì” lấy lại từ cuốn sách vừa dẫn. Trên công báo 1955, có ghi mỗi công nhân viên về nguyên tắc mỗi năm được cấp 5-7 mét vải. Đầu 1955, sinh đẻ được cấp 5 mét diềm bâu khổ 70mm, 30 kg gạo; văn phòng phí gồm 1,5 thếp giấy /tháng / người. Bình quân 10 người / tờ báo Nhân dân, một tờ Cứu quốc. Quạt điện cấp cho các vị từ cấp Thường vụ Ban thường trực Quốc Hội, Bộ Thứ trưởng, các chuyên gia nước ngoài, các đoàn ngoại giao. Cũng diện Bộ Thứ trưởng được dùng điện đèn, điện quạt tùy yêu cầu (tr. 665).

Sự thiếu thốn này kéo theo cả một quy trình sống mà người ta phải thích ứng. Khoảng trước sau 1960, bắt đầu có chế độ sổ gạo áp dụng cho toàn dân. Rồi tiếp sau đó, dường như tất cả nhu yếu phẩm đều có phiếu, như phiếu mua pin cho máy thu thanh – mà hồi đó người Hà Nội quen gọi là đài --, phiếu mua phụ tùng xe đạp. Có hai điều không cần phải nói ai cũng biết 1/ định lượng cung cấp cho đại bộ phận các thành viên xã hội ngày mỗi giảm 2/ chất lượng các nhu yếu phẩm ngày một kém. Điều này đã được một cán bộ thương nghiệp nhẩm thành bài vè Nhất gạo nhì rau – Tam dầu tứ muối – Thịt thì đuôi đuối -- Cá biển mất mùa – Đậu phụ chua chua – Nước chấm nhạt thếch -- Mì chính có đếch – Vải sợi chưa về -- Săm lớp thiếu ghê – Cái gì cũng thiếu (tr 412). Tất cả cứ thế mà trượt dài cho đến giai đoạn hậu chiến.


Thích hợp nhưng để lại nhiều di lụy


Thời bao cấp (75-86) luôn được biết đến như một thời gian khó với cơ chế quản lý kinh tế xã hội không thích hợp. Trong bản giới thiệu trước khi dẫn vào Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp có ghi như vậy. Xét theo lẽ phải thông thường, có thể thấy điều đó là đúng. Làm sao mà quản lý xã hội kiểu đó là thích hợp được?

Nhưng nên nhớ điểm xuất phát của chính sách này là hoàn cảnh “thời chiến”, một cuộc chiến tranh chúng ta luôn luôn ở thế yếu và phải có những nỗ lực vượt bậc. Tất cả cho tiền tuyến. Thóc không thiếu một cân – quân không thiếu một người. Những khẩu hiệu đó được hiểu chính xác đến từng chữ. Người ở hậu phương lúc này như sống theo ăn theo. Thế thì có thiếu cũng là bình thường!

Vả chăng, để tiến hành chiến tranh, xã hội cần phải kết lại thành một khối rắn chắc, mà muốn thế, cần ghép mọi người vào tổ chức, nói theo một danh từ của lịch sử, là “ đoàn ngũ hóa “ họ. Việc phân phối theo kiểu bao cấp chỉ là kết quả của một quá trình lớn lao hơn: Tất cả những gì thuộc về con người phải được quản lý.

Nếu nhìn nhận liền cả một quá trình như thế thì có thể thấy rằng không phải cái cơ chế quản lý kinh tế mà ta gọi là bao cấp ấy là không thích hợp, mà có thể nói nó là một cái gì hết sức thích hợp mới đúng. Tương tự như câu chuyện hợp tác hóa. Chắc chắn là không có hợp tác hóa không thể đánh Mỹ được.Tại sao vậy? Bởi có hợp tác hóa thì mới dễ dàng huy động được những sản phẩm mà nông dân sản xuất được để tiếp tế cho chiến trường. Có hợp tác hóa mới dễ đưa người đi bộ đội.

Đó không phải là một kiểu quản lý khôn ngoan và có hiệu quả ư? Tất nhiên rồi. Nhưng không thể có cách nào khác.

Ra đời trên cơ sở một cơ chế sản xuất bị kìm hãm, quy trình bao cấp sau đó quay trở lại củng cố sự kìm hãm đó, tức làm cho tình trạng trì trệ càng thêm trì trệ. Cái được rất nhiều, nhưng cái mất còn lớn hơn nữa. Và cái đáng sợ nhất là không ít người coi cách quản lý đó là duy nhất thích hợp nên không nghĩ đến chuyện làm khác đi, thậm chí hủy bỏ, khi hoàn cảnh đã thay đổi. Bởi nó tiếp tục duy trì có tới cả chục năm sau chiến tranh, nên cuộc trưng bày mới được khuôn vào quãng thời gian 75-86 nói trên. Lúc này cái chế độ bao cấp đã đạt đến mức “ cổ điển” của nó. Người ta sống trong đó như cá trong nước, nghĩa là tự nhiên thuần thục, và đành lòng chấp nhận tất cả. Chỉ lấy ví dụ về lương, đây là con số đưa ra trong cuốn sách Kinh tế Việt Nam1955-2000 cách tính toán mới phân tích mới (Trần Văn Thọ chủ biên, nhà xuất bản Thống kê 2000): so với năm 1978, thì mức lương năm1980 chỉ bằng 51,1% và năm 1984 chỉ còn 32,7%. (4) Sự vô lý đã lên đến mức không cách gì bào chữa được nữa.


Những sự gậm nhấm thường trực


Tiếu lâm Việt Nam nổi tiếng với các loại truyện có liên quan tới miếng ăn, từ thày đồ ăn vụng mật tới anh chàng sang nhà bố vợ, nhờ con gà vướng dây mà gắp lia lịa. Với rất nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, với Đói của Thạch Lam hoặc Một bữa no của Nam Cao … người ta đã thấy văn chương tiền chiến có nhiều tác phẩm cảm động đi vào miêu tả những liên hệ của con người với miếng ăn. Hồi ký Từ bến sông Thương của Anh Thơ kể hồi kháng chiến chống Pháp, có lần tác giả bắt gặp Xuân Diệu đang trên đường vào Khu Bốn. Hỏi tại sao vào, mới biết ra ở Việt Bắc thiếu cái ăn quá, tác giả Thơ thơ “du” Thanh Nghệ để tìm cách cải thiện sức khỏe.

Mối quan hệ giữa con người và miếng ăn vốn đặc trưng cho mỗi thời đại.

Tháng mười 1954, khi Hà Nội mới giải phóng, tôi ở vào tuổi 12. Trong số những kỷ niệm liên quan tới sự kiện này, có việc một hôm chính quyền bán theo giá rẻ gần như cho không mỗi hộ một kg đường. Cả cái xóm nghèo Thụy Khuê chúng tôi háo hức chờ đợi. Và ở tuổi 12, tôi được theo người lớn đi xếp hàng từ bốn giờ sáng. Quý lắm, hể hả lắm, mỗi lần nói tới giải phóng Thủ đô lại nhớ cân đường mua rẻ.

Gần mười năm sau, mùa hè 1963, trong những ngày học Đại học sư phạm Vinh, một lần lớp Văn II B của tôi lên huyện miền núi Nghi Lộc giúp dân thu hoạch lúa. Để động viên, cấp trên phát chúng tôi mỗi người một lạng đường gói vào tờ giấy báo. Xin phép gạt nỗi xấu hổ ra một bên để thú thực là ngay trong buổi họp, nhiều sinh viên, trong đó có tôi, đã giở cái gói mỏng teo đó ra, liếm sạch, vừa liếm vừa nhìn nhau cười, vì không ai bảo ai mà ứng xử giống nhau thế!

Đúng như một trong những câu ghi trên tường cuộc triển lãm này đã xác định, trong suốt cái thời gian khó đó, có những lúc cái sự ăn trở thành tất cả đối với con người. Từ sáng đến tối chỉ nghĩ chuyện ăn. Ăn là thiêng liêng. Ăn là dấu hiệu chứng tỏ mình đang được sống. Thay cho câu “ tôi tư duy vậy tôi tồn tại “, điều tâm niệm của con người lúc này là “tôi còn được ăn, vậy tôi tồn tại”.

Ngoài sự ăn, trong may mặc, đi lại, và cả trong vui chơi giải trí nữa, con người lúc ấy cũng ở vào tình trạng tương tự. Những câu nhại Kiều “Bắt ở trần phải ở trần --- cho may ô mới được phần may ô” lan ra như cỏ dại, câu này chết đi, câu khác lại được truyền tụng.

Nói rằng thiếu thốn còn quá đơn giản, phải nói sự thiếu thốn lúc ấy đã lên đến mức vượt ra ngoài sự tưởng tượng. Hơn nữa, sự thiếu thốn triền miên ấy đã in dấu vào tâm lý mọi người và trở nên một cách nghĩ thường trực, nhìn bên ngoài có chút gì kỳ quái, thế mới đáng sợ.

Lại nhớ Ngô Tất Tố có bài tiểu phẩm kể Làm no hay là cái ăn trong những ngày nước ngập. Trong số những người phát biểu cảm tưởng sau khi xem trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp, cũng có người có cái ý nghĩ tương tự như nhân vật Ngô Tất Tố, tức là nói đến khả năng vượt lên trên sự đói, với một chút tự hào. Tuy nhiên, nếu có muốn cười thì thật ra nhiều người chúng ta thường đã phải giấu đi những giọt nước mắt.

Vâng, làm sao khỏi ứa nước mắt, khi nghĩ tới những sáng kiến hồi đó. Nuôi lợn ngay trong các căn hộ 20 mét của các chung cư. Lộn cổ áo sơ mi và “ tích kê “ những chỗ ống quần dễ rách. Nhặt mảnh phim về kết thành làn. Thu góp từng cái ruột bút bi viết hết để mang về bơm lại. Lộn trái phong bì để sử dụng thêm lần nữa … Nhiều chuyện lắm và có những chuyện bây giờ phải diễn giải ngọn ngành mới hiểu nổi.

Bảo rằng đó là tiềm năng sáng tạo được bộc lộ thì cũng đúng. Nhưng tôi cứ thấy tủi cho chữ sáng tạo thế nào. Sáng tạo liều, sáng tạo quẩn, sáng tạo lấy được …, chắc còn có thể mệnh danh cho sự sáng tạo ấy bằng nhiều chữ nghĩa xót xa khác.

Con người và tư tưởng thời bao cấp <2>

Những thay đổi đã đến với con người

Nói như ngôn ngữ thời nay,cái giá để duy trì sự nhất trí và do đó sự ổn định như vậy “ không rẻ “.Về mặt sản xuất,đã thấy chế độ bao cấp mang lại nhiều tai hại. Nó tước đi của xã hội sự năng động và khả năng điều chỉnh tự nhiên. Nó kìm hãm sức làm việc khiến cho toàn bộ sản xuất ngưng trệ thậm chí thụt lùi. Nhưng không chỉ có thế. Tác động sâu xa mà nó để lại trong đời sống tâm lý và toàn bộ cách sống của con người cũng là điều đáng để day dứt.

Tchekhov là một nhà văn Nga vốn rất nhạy cảm với chủ đề nỗi khổ làm hại tới phẩm chất con người. Qua miệng một nhân vật, ông từng khái quát “những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo nghiệt ngã, và ít khả năng hiểu người khác hơn cả những người đần độn”.

Ông từng dựng lại một nhân vật suốt đời lo kiếm sống và khi về già lấy việc được ngồi ngắm những trái cây thu hoạch trong vườn mình làm điều mãn nguyện (Quả phúc bồn tử). Bởi đã có lúc quá thiếu thốn, nên khi no đủ con người vẫn hiện ra bệ rạc đáng thương.

Sự tha hóa con người ở mọi thời đại không ra ngoài hai hướng mà Tchekhov đã khái quát ở trên.

Sau đây là một trường hợp gần với chúng ta hơn, một cách ứng xử bề ngoài có vẻ như không có gì quá đáng mà chỉ thoáng một chút kỳ dị, nhưng không vì thế mà bớt đi vẻ bi thảm. Trong Chơi vơi trời chiều (5), nhà văn Trung quốc Thiết Ngưng từng đưa ra một nhân vật rất lạ: do có thời gian bị đày xuống nông thôn và chịu cảnh rét buốt thấu xương, bà dạy mẫu giáo ở một huyện nọ nảy sinh một thói quen là lúc nào cũng lo rét sợ rét, và không đủ phương tiện chống rét ; thế là đi đâu, tới cửa hàng bách hóa nào, bà cũng lùng sục để mua chăn bông, rồi về “ xếp cao từ nền nhà lên tận trần”.

Những ngày thiếu thốn cũng đã để lại trong tâm lý con người Việt Nam nhiều loại di lụy tương tự. Cái hèn mà ta vốn khinh ghét, cái hèn đó ngấm ngầm ăn vào máu ta. Hèn theo nhiều nghĩa. Lúc nào cũng lo lắng, sợ sệt. Và chỉ có những niềm vui tầm thường. Mua được cân gạo không bị mốc, vui. Cưới cho con trai cô vợ làm ở cửa hàng lương thực nên cả họ mua bán dễ dàng, quá vui. Đi bộ mấy cây để đến nghe nhờ đài ở một nhà bạn, cũng đã vui lắm. Vui đấy rồi thấy mình sự khốn khổ của mình ngay đấy, và ngày mai, lại vẫn tiếp tục cái tầm thường dễ thương đó.

Cũng theo những cách thức rất từ tốn, sự xót xa đã đến, mà chỉ những lúc thật tĩnh trí người ta mới nhận ra, nhưng nó cứ bám vào đầu óc ta mãi. Được giải thích kỹ lưỡng, ai cũng hiểu hy sinh là cần. Nhưng vì sự hy sinh này đã kéo quá dài nên người dân không khỏi sinh ra mệt mỏi. Nhiều sự uể oải diễn ra ngoài ý muốn. Và nguy hiểm nhất, sự ngại ngùng khi nhìn về phía trước. Con người cảm thấy không bao giờ mình có thể vươn tới những cái cao đẹp. Mình đã bị đánh mất. Nhắm mắt buông xuôi, tự cho phép làm bất cứ điều gì khi thấy cần, miễn là tồn tại. Lòng tự trọng kiểu nhân vật lão Hạc của Nam Cao không còn. Mà đến một chút phẫn uất của Chí Phèo cũng không còn nốt.

Theo chỗ tôi biết, trong thời gian gọi là ngưỡng cửa của công cuộc đổi mới (khoảng 1985-86), nhà mác - xít Trường Chinh vốn người kiên định bỗng có một sự chuyển biến. Trước đây, ông nghĩ rằng sự chịu đựng của nhân dân là không giới hạn. Tới lúc này thì không phải thế nữa. Sự chịu đựng có thể xói mòn lương tâm và làm thoái hóa con người. Bởi hiểu thế, ông nghiêng hẳn về cải cách.


Những mối quan hệ bị biến dạng

Đồng thời với việc tác động vào tâm tính con người, những ngày bao cấp cũng mang lại cho mối quan hệ giữa người với người những biến dạng. Sự biến dạng này mỗi ngày một ít, đến mức người trong cuộc khó nhận ra, nhưng rồi cuối cùng vẫn hằn lên thành những quy tắc rõ ràng, dù là quy tắc không ghi thành văn bản.

Bảo rằng mục tiêu của cả một thế hệ Việt Nam trong đêm trước đổi mới là “ sống và sống đẹp “ như gần đây một vài tờ báo đã viết thì không ai cãi lại được. Riêng những năm đầu chiến tranh thì quả là một thời kỳ Nghiêu Thuấn. Ở Hà Nội, các nhà đi sơ tán chỉ khóa cửa bằng một cái khóa sơ sài. Ra đường, cánh bộ đội chúng tôi vẫy xe dễ dàng. Người nọ nghĩ về người kia với một niềm tin tự nhiên. Đẹp là đẹp theo nghĩa ấy!

Song có một sự thực là đến đầu những năm bảy mươi, mọi chuyện đã khác và từ sau 1975 thì càng khác. Dễ thấy nhất là chuyện những chiếc xe đạp; ngoài khóa chính lại còn phải khóa thêm cái yên.Tô Hoài kể trong Cát bụi chân ai: Ở một cửa hàng ăn rất sang hồi ấy, những chiếc đĩa đựng bánh ngọt phải bắt vít xuống mặt bàn. Một sự thực nhiều người tuổi tôi còn nhớ: các quán mậu dịch giải khát (kể cả cà phê) loại tầm tầm cũng “thống nhất” đục một lỗ thủng các thìa nhôm để đánh dấu. Vì sao ư, đơn giản lắm, vì sợ ăn cắp. Chính sách em học đã thông -- Chỉ vì túng thiếu xin ông ít nhiều: Quả thật, càng ngày nạn ăn cắp càng phổ biến, dù chỉ là ăn cắp vặt. Ăn cắp bởi không có cách nào khác để sống. Và bởi nhiều ăn cắp quá nên không bị coi là việc xấu nữa.

Tương tự như thế là sự dối trá. Hồi ấy báo chí ít lắm, mà từng tờ cũng it trang ít chữ, vậy mà có lần trên báo Nhân dân (tôi nhớ đâu như 1974) có cuộc thảo luận về làm ăn thật thà, điều đó chứng tỏ là lúc đó sự dối trá trong làm ăn đã lan ra rất rộng. Không thật thà trong việc làm ra của cải. Nhất là không thật thà trong chuyện phân phối.


Nếu thời gian đầu, giữa người với người có sự chia ngọt sẻ bùi thì càng về sau (xin nhấn mạnh một lần nữa: đặc biệt nhất từ 1975 trở đi), một xu thế ngược lại ngày càng nổi lên và đóng vai trò chi phối: trong cảnh nghèo rỗi rãi, người ta rất hay soi mói để ý đồng nghiệp và hàng xóm. Nghi ngờ xen lẫn ghen tị. Nghi ngờ: “đói ăn vụng túng làm càn”, ai cũng một lần da đến ruột, ai cũng sẵn sàng làm bậy như mình thôi. Và ghen tỵ, ghen tị một cách tự nhiên, thậm chí không biết rằng đang làm một hành động độc ác. Cùng cảnh khổ với nhau, không lẽ gì có người hơn kẻ kém. Vậy không ai được phép hơn mình. Không cho ai ngóc đầu lên cả. Cách gì cũng có thể làm, miễn là kéo được nhau xuống.

Trên nét lớn, nhiều người biện hộ: con người phải thay đổi như vậy để thích ứng với hoàn cảnh. Tôi thấy cũng có lý, chỉ nói thêm, quá trình thích ứng này không nên chỉ được xem như một cái gì đáng khen, đáng mừng mà thực ra là một quá trình kép, tích cực có mà tiêu cực cũng có, tiêu cực rất nhiều nữa.

Trong một tài liệu mang tên Xã hội học cá nhân, nhà tâm lý học người Nga I.X.Kon từng nêu mấy nhận xét có tính chất lý luận. Kẻ lo thích nghi là kẻ trí tuệ kém phát triển hơn người độc lập. Họ ít khả năng làm chủ bản thân trong những điều kiện căng thẳng. Họ thường nghe ngóng dao động và rất dễ quay trở về với tình trạng vốn có, nói nôm na là họ rất bảo thủ. Bởi họ không đủ lòng tự tin. So với những nhân cách độc lập, và được phát triển trong điều kiện chính thường, thì quan niệm của họ về bản thân phiến diện hơn hời hợt hơn. Đứng trước thực tế khách quan, năng lực phán đoán của họ rất thấp. Với người chung quanh họ vừa thiếu tin tưởng vừa dễ bị lừa. Nói chung là họ rất thụ động, hay đạo đức hóa các mối quan hệ và sợ xa rời tiêu chuẩn.

Không cần gò ép chút nào, cũng có thể thấy những đăc điểm đó của con người thích ứng cũng là đặc điểm của chính chúng ta thời bao cấp, với cách biểu hiện khi tinh tế hơn khi trắng trợn hơn, song loại nào cũng có.


Những quan niệm thô thiển về con người và những thang bậc chặt chẽ

Từ những hoạt động lặp đi lặp lại, lẽ tự nhiên có sự hình thành những quan niệm.Trở lên, tôi đã nói những tác động của quá trình đoàn ngũ hóa, hợp tác hóa cũng như sự bao cấp nói chung tới quan niệm sống của mọi người dân thường, mọi công dân. Thế còn ảnh hưởng của nó tới ngay người quản lý xã hội? Đây là cả một câu hỏi lớn, dưới đây chúng tôi chỉ nói tới hai điểm nhỏ.

Thử đọc một cái lệnh về quản lý lạc được ghi lại trong cuốn Kinh tế Việt Nam 1945-2000:

Không có thị trường tự do về buôn bán cũng như về trao đổi các mặt hàng kể trên, cụ thể như lạc chỉ để lại vừa đủ làm giống cho vụ sau tính toán cho sát. Người sản xuất không tiêu dùng là tốt, người trồng lạc không ăn lạc không dùng lạc để làm kẹo hay luộc để bán … Đối với nông sản dùng để chế biến thực phẩm cho nhân dân thì nhà nước phải quản lý chặt chẽ trên thị trường, không để ai buôn bán kiếm lời.

Đằng sau những lời lẽ cứng nhắc là một quan niệm khá thô thiển: người ta nghĩ rằng mỗi thành viên xã hội không là gì cả, mỗi công dân không thuộc về chính mình mà trước tiên là của cộng đồng. Cái gì cũng có thể và cần phải quản lý -- xã hội và con người chỉ còn là một thứ đất sét, muốn nhào nặn thế nào cũng được. Đây chính là cái tư tưởng làm nền cho sự quản lý.

Để biện hộ cho mình, một thời gian dài, chúng ta khăng khăng cho rằng những biện pháp như trên là duy nhất đúng và giá kể tiếp tục như thế mãi mãi thì làm gì cũng được. Đáng lẽ phải hiểu rằng lối quản lý đó gây ra rất nhiều tai hại trong nếp sống cũng như tư tưởng con người thì người ta lại lầm tưởng nó là cái mẫu lý tưởng nên theo, và sau này chỉ bần cùng bất đắc dĩ mới từ bỏ.

Tư tưởng đó cố nhiên chỉ có thể nảy sinh ở những người ít kinh nghiệm nhưng lại quá tự tin không chịu rút kinh nghiệm. Không tính hết hậu quả các chính sách xã hội của mình. Dễ cứng nhắc, thô bạo.

Còn một vấn đề nhức nhối nữa thường ngự trị trong đầu óc mỗi người mỗi khi nhớ lại thời bao cấp (mà đến nay cũng chưa chấm dứt được là), đó là cảm tưởng về một xã hội có sự phân chia theo những thang bậc chặt chẽ.

Mọi chuyện cũng bắt đầu từ kinh tế. Sự cung cấp được chia ra theo ngạch bậc. Cán bộ cao ăn cung cấp – cán bộ thấp ăn chợ đen—Cán bộ quen ăn cổng hậu. Phải nói ngay là cũng như toàn bộ chế độ bao cấp nói chung, việc phân chia theo ngạch bậc là hoàn toàn tự nhiên, không thể làm khác.

Thế nhưng không phải vì thế mà làm thế nào cũng được!

Đây là một số số liệu ghi trong cuốn sách Kinh tế Việt nam 1945-2000: Trong khi người dân thường mỗi tháng chỉ được 150 gram thịt, thì cán bộ cao cấp trên được 6kg, tức là bốn chục lần lớn hơn. Và tính ra chênh lệch là 100 đồng. Ngoài ra còn thuốc lá chè đường sữa len dạ, cũng tạo ra khoản chênh lệch khoảng 100 đồng nữa.

Theo cách nhìn hiện đại thì cái sự hơn kém giữa trên với dưới trên kia mô tả, kể cả những khoản giấu diếm – cũng chả là bao. Nhưng đặt trong mặt bằng chung của thời chiến, đó đã là một sự chênh lệch lớn. Bởi vậy những lời biện hộ cho rằng so với lương tối thiểu là 26 đồng thì lương bộ trưởng chỉ gấp tám lần (khoảng từ 200 đến 220 đồng) – lối biện hộ ấy không thuyết phục được ai.

Vốn cũng từ dân nghèo mà ra, người quản lý biết ngay rằng mình hưởng có phần quá. Lại do chỗ muốn an lòng người dân, một khuynh hướng tìm cách che giấu hình thành. Ban đầu là tự nhiên. Về sau là cố ý.

Từ đây nẩy sinh một ấn tượng, thường in đậm trong đầu óc mọi người mỗi khi nhớ tới cái khoảng thời gian gọi là thời bao cấp. Đó là hình ảnh một xã hội mang tính thang bậc chặt chẽ. Cái này thì người dân thường Hà Nội trước sau 1975 cảm thấy rất rõ. Bởi hồi ấy, xe ô-tô ở Hà Nội rất hiếm, nên chỉ cần nhìn một chiếc xe con đi qua, chúng tôi biết ngay là đã có một vị cỡ nào vi hành. Xe Pobeda và sau này là Vonga đen ư? Cố nhiên là bộ trưởng trở lên rồi. Các thứ trưởng và cấp tương đương đi những chiếc nhỏ hơn và ít oai vệ hơn, tức là loại Moskovits. Một nhà văn hay ghi những chuyện vặt là Tô Hoài còn kể ngay cách trang trí sau xe cũng có phân biệt. Như thế đấy, một nếp sống đặc sệt chất quan liêu nảy sinh ngay trong thời buổi khó khăn và con người tưởng là bình đẳng nhất.


Xưa nay nối tiếp

Các nhà kinh tế gần đây hay nói tới cơ chế xin cho, nó là yếu tố cản trở tính năng động của xã hội. Nhưng ngồi thử vân vi thì biết: Tác phong quan liêu cửa quyền. Thói quen luồn lách, chỉ chực phá luật kiếm lợi riêng. Nhịp sống uể oải đến đâu hay đến đấy. Lối suy nghĩ rập khuôn. Những đam mê đen tối. Niềm khao khát thường xuyên muốn được tận hưởng những gì chỉ mới nghe mới thấy từ những xứ sở xa lạ …Bấy nhiêu thói xấu mà hôm nay chúng ta khó chịu (cũng như bao thói khác chưa kể ở đây), chẳng phải đều bắt nguồn từ cái quá khứ mà chúng ta muốn không bao giờ lặp lại đó?!

Theo Từ điển Hoàng Phê, bao cấp là “cấp phát phân phối, trả công bằng hiện vật và tiền mà không tính toán hoặc không đòi hỏi hiệu quả kinh tế tương ứng”. Cuộc trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp là một minh họa đích đáng cho cái định nghĩa phổ thông đó và mở ra cho chúng ta một dịp để nghĩ lại mọi chuyện. Với việc không dùng tiền tệ để thanh toán, và đẩy hoạt động sản xuất về tình trạng tự cấp tự túc, cách phân phối ấy là một bước lùi trong tư duy kinh tế. Còn nhìn rộng ra các mặt khác thì xã hội lúc ấy là xa lạ với khái niệm xã hội dân sự. Bởi về đại thể, đó là một xã hội không bình thường, nên những cố gắng bình thường hóa nó trở lại của chúng ta hai chục năm gần đây mới khó khăn đến thế !




(1) Cuộc trưng bày này nằm trong chương trình tổng kết 20 năm đổi mới do UNDP và các quỹ khác như quỹ Ford, quỹ Sida tài trợ. Mở cửa từ tháng sáu tới hết năm 2006.

(2) Điều thú vị là đoạn này của Tô Hoài lại được sử dụng như là tài liệu minh họa tốt trong một cuốn sách giáo khoa về kinh tế, cuốn Kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II 1955-1975 – Đặng Phong chủ biên Nhà xuất bản Khoa học xã hội –2005. Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị khoa học thực sự. Một số trích dẫn dưới đây có ghi chú số trang là lấy từ bản in này

(3) Nhại một câu thơ của Đoàn Phú Tứ Màu thời gian tím ngát, bài Hương thời gian

(4) Dẫn lại từ Phạm Thị Quý chủ biên, Giáo trình lịch sử kinh tế Việt nam, NXB Đại học kinh tế quốc dân,2006, tr 399.

(5) Bản dịch đã in ở NXB Hội nhà văn 2006

Thói hư tật xấu của người Việt: Lãng phí, mất gốc, học đòi


Chơi bời lãng phí
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, năm 1907)


Theo tục ông bà để lại, hễ mãn một năm thì ăn Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ tới ngày ấy, ai ai cũng đốt pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh quần tới bảy bữa, rồi nào me, nào lú(1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có ông ăn Tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo sau. Đã bần nhược lại đãi đọa(2) vậy thi biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng.


(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, đánh me là "gây ăn thua trong cuộc chơi tiền”, còn lú là "cuộc con nít dùng tiền mà đánh đố”.
(2) Biếng nhác






Dấu xưa tan biến
(Thạch Lam, Hà Nội 36 phố phường, năm 1941)


Những chốn ăn chơi của Hà Nội là nhất Bắc kỳ, cái đó rành rành không ai chối cãi. Nhưng chúng ta phải buồn phiến mà nhận ra rằng những hiệu cao lâu(1) có danh và bền vững đều là của người Tàu. Về cách tổ chức một chốn ăn, về danh vọng của một ngôi hàng cơm thật quả chúng ta không có nền nếp tục lệ và quy củ. Hồi Hà Nội còn là kinh đô của vua Lê chúa Trịnh chắc cũng cón nhiều quán rượu tươm tất do người mình chủ trương. Nhưng bây giờ vết tích còn đâu? Cái quán rượu mà cụ Nguyễn Du lúc còn trẻ tuổi đã dắt ba bốn người bạn vào uống và bàn chuyện về lũ kiêu binh, cái quán ấy chẳng hạn mà còn đến bây giờ, còn cả bộ trường kỷ Nguyễn Du đã ngồi, thì hẳn là một chốn đáng cho chúng ta trọng vọng nhường nào.

(1) cửa hàng ăn loại tương đối lớn.





Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
(Hoa Bằng, Hiếu thượng, Tri tân, năm 1943)


Cái hiểu thượng(1) của số đông người mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi trong gia đình đến động tác ngoài xã hội. Người ta chơi câu đối? Phần đông không phải vì thích chữ tốt yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản(2) có chức tước. Người ta in danh thiếp? Không phải vì cốt thông tính danh tỏ địa chỉ, song hình như chỉ cốt trưng những chức sắc tước trật và phẩm hàm. Người ta đăng cáo phó? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con cháu.

Cái bệnh hiếu thượng ấy truyền nhiễm đến cả nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong trào phi cao đẳng bất thành phu phụ. Vì thế trong cuộc hôn nhân đã xảy ra lắm chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của người khác để đưa nhà gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự(3) suốt mấy tháng để nhà gái nếu có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...

(1) thích hướng lặn trên, tức hiếu danh...
(2) tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) làm công chức.

Thói hư tật xấu của người Việt: huyền hồ, than vãn, học để thi

Tật huyền hồ sáo hủ
(Nguyễn Văn Vĩnh, Tật huyền hồ sáo hủ, Đông Dương Tạp chí, năm 1913)


Xét trong văn chương, xảo kỹ nước Việt Nam, điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không cái gì là thực tình... Thời tiết nước mình thì không biết một chút chi chi, tả đến tứ thời thì Xuân phải phương thảo địa, Hạ phải lục hà trì, Thu phải hoàng hoa tửu, Đông phải bạch tuyết thi(1). Thành ra đến câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì như mắt mù tai điếc. Mượn chữ người, mượn đến cả phong cảnh tính tình chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng cho nó có lý tường đặc biệt.

Người Việt Nam lý hội(2) điều đẹp cũng có một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp môi son mắt phượng, mày ngài khuôn trăng mình liễu thì bao giờ tả người đẹp ta cũng cứ thế mà tả.

(1) Huyền là sự gì lơ lửng không dính vào đâu, hồ là lời nói càn, sáo là lời dựa theo khuôn có sẵn, hủ là lời khoe khoang, bốn chữ này ghép lại chỉ sự ăn nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo.
(2) Vùng đất đầy có thơm, ao sen xanh mướt, rượu hoàng hoa và thơ tả tuyết trắng.
(3) Hiểu, quan niệm.




Nặng về rên rỉ than vãng
(Quốc dân độc bản, Tài liệu do Đông kinh nghĩa thục soạn, năm 1907)


Những kẻ chơi bời lười biếng, vô công rồi nghề, sống dựa vào người khác, hưởng lợi mà không sinh lợi, thật chẳng khác gì giống ký sinh trùng trong loài động vật. Đó là những con mọt nước...

Quen thói ỷ lại vào người thì dù có tâm có lực cũng không dùng được mà dùng cũng chẳng được lâu, tâm tư tài lực ắt sẽ nhụt dần. Hơi khó khăn gian khổ là rên rỉ, than vãn, uất ức bó tay chịu chết. Hỏi vì sao không cải lương, nói lệnh trên chưa thay đổi. Hỏi vì sao không học tập, nói không có tài năng. Như thế thì xã hội ngày một suy, nước làm sao mạnh được?




Tâm lý học để đi thi
(Ngô Đức Kế, Nền quốc văn, Hữu Thanh, năm 1924)


Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà đi thi, đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi. Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học. Cho nên ngày trước triều đình thi Hán tự thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử ông nghè, ngày nay Chính phủ Bảo hộ thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông thẩm, ông phán.




Có khoa cử mà không có sự nghiệp
(Phạm Quỳnh, Bàn về quốc học, năm 1931)


Nho học có lợi cho cái chính thể quân chủ chuyên chế nên các đế vương nước ta lại càng tôn sùng lắm. Cái chế độ khoa cử thật là một cái quà rất hại mà nước Tàu đã từng cho ta. Ngay bên Tàu nó đã hại mà sang đến ta cái độc của nó lại gấp mấy lần nữa. Người Nhật Bản họ hơn mình, chính là vì họ không mắc phải cái vạ khoa cử như mình. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì bắt chước, chứ đến cái khoa cử thì họ không chơi. Đời Đức Xuyên (Tokugawa) cũng đã có một hồi thi hành cái chế độ hãm hại nhân tài, nô lệ thân tri đó, những sĩ phu trong nước họ không chịu nên cũng không thể bền được. Ở nước ta thì đến hơn 600 năm sinh trường trong cái chế độ ấy, trách nào cái khí tinh anh trong nước chẳng đến tiêu mòn đi hết cả. Ở Văn miếu Hà Nội còn mấy dãy bia kỷ niệm các cụ đỗ Tiến sĩ về đời Hậu Lê , trong đó chắc có nhiều bậc nhân tài lỗi lạc, nhưng vì mài miệt về đường khoa cử, nên đều mai một mất cả, tên còn rành rành trên bia đá đó, mà có sự nghiệp về đường học vấn tư tưởng được như ai?
Nguồn: Tạp chí Thể thao & Văn h

Thói hư tật xấu của người Việt: tha hóa tự nhiên, đáng chê cười

hưa trưởng thành trên phương diện công dân
(Phạm Quang Sán, Nước ta đã dùng được phép luật văn minh chưa? Đông dương Tạp chí, năm 1914)


Nước ta theo đạo thánh hiền, dân khai hóa cũng đã lâu nhưng ví với các nước văn minh thì trí khôn còn thiếu, tư cách chưa toàn, chưa hiểu nghĩa vụ riêng là thế nào, chưa biết trách nhiệm chung ra sao. Nộp thuế là của tiêu chung mà còn có người dân ẩn lậu, đi lính là giữ cho mình mà còn có người trốn tránh, đê điều cấm phòng thân lừa ưa nặng không đánh không đi, lại có những kẻ nay trộm mai cướp không để cho dân yên nghiệp.




Nhìn đâu cũng thấy chuyện đáng chê cười
(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Sự xấu hổ, Hữu thanh, năm 1921)


Trong một họ tôn trưởng thời lèm nhèm, con em thời vô lại, trai ăn trộm đánh bạc, gái làm biếng chửa hoang, nhà thờ tổ có kẻ rỡ ngói bán, ngày giỗ tổ uống rượu để rức nhau(1), nhà bác cưới con gái nhà chú không được tiền thời sinh sự để trở hôn, người này chết vợ con người kia có sự bất bình thời sinh.sự để ngăn cản việc tống táng... ấy là những sự xấu hổ của một dòng họ.

Trong một làng đàn anh chỉ ăn bẫm, đàn em chỉ kiện nhau, đình điếm tồi tàn, đường bến rác uế, tiếng chửi mất mạ ở ngoài đồng, tiếng chửi mất gà ở trong xóm, nhà nào có tang ma thời quan viên hạch sách sự ăn uống, nhà nào có thất hỏa(2) thời hàng xóm láng giềng đến hôi đồ... ấy là những sự xấu hổ của một làng...

(1) nhiếc móc nhau.
(2) bị cháy




Tha hóa một cách tự nhiên
(Võ Liêm Sơn, Văn minh nước Việt Nam, năm 1929)


Nước ta, đạo Khổng Mạnh dĩ đức báo oán là chữ nhãn, dĩ tiểu sự đại là chữ trí, ai chết mặc ai không học chữ kiêm ái, dở khôn dở dại cứ giữ đạo trung dung(1), trải mấy ngàn năm vua tôi cha con quan dân thầy trò từ trên chí dưới cứ ở trong phạm vi cái đạo đức ấy đã gây nên một nến văn hóa rất có đặc sắc cho đến ngày nay. Này anh thử xem, cúi đầu tận ngực phú quý không hay kiêu, đánh bạc phá nhà tiền tài không biết lặn(2), thờ kẻ trên có lễ phép thì mồng năm ngày Tết đưa miếng tới quan, đãi kẻ dưới có lòng thành thì chú bếp cậu bồi ngồi xe chung cùng vợ, cha mẹ nói ngang quan sang nói trái con dân cũng cứ phụng tùng(3), ăn giỗ đi trước lội nước đi sau xã hội chỉ theo trật tự(4). Ánh thử thắp đuốc văn minh mà soi khắp thế giới coi thử có nước nào như nước Việt Nam ta không?

(1) đoạn này có ý mỉa mai, cho rằng người mình thường hiểu sai đạo lý Khổng Mạnh. Những chữ nhân, chữ trí cũng như chữ kiêm ái chữ trung dung thật ra không phải có nghĩa như tác giả dẫn ra ở đây mà nhiều khi ngược lại.
(2) ăn gian.
(3) phụng ở đây có nghĩa là tin theo, tùng cũng là theo.
(4) vẫn tiếp tục dùng cách nói mỉa.





Quá thiết thực hóa tầm thường
(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)


Người Việt không quan niệm cái gì thái quá. Từ cung điện lăng tẩm của vua chúa đến đền đài miếu mạo của dân gian mọi thứ đều khuôn theo sở năng kinh tế và xã hội. Khuôn khổ chùa Đế Thiên Đế Thích và thành Đồ Bàn đều ra ngoài trí tưởng tượng. Vê học thuật cùng tư tưởng không có chủ nghĩa siêu hình nào. Vật lộn với cuộc sống qủa eo hẹp hàng ngày nơi đồng ruộng hoặc miệt mài vào sách thánh kinh hiền, người ta ít rảnh thời giờ theo cuộc suy tưởng triền miên. Cũng vì thiết thực mà người Việt tín ngưỡng để rút phần lợi ích thiển cận của tôn giáo tại ngay kiếp này, nhiều hơn là mong linh hồn được giải thoát mãi tận kiếp sau.

Thói hư tật xấu của người Việt: thủ cựu, ngại thay đổi

Thủ cựu và ngại thay đổi
(Nghiêm Xuân Yêm, Nông dân mới trong nghề nông xử ta, Thanh Nghị, năm 1945)


Trước hết nông dân ta ngày nay (bài này viết tháng 02/1945 - VTN chú) đều còn dốt nát. Bởi dốt nên thủ cựu mà thủ cựu một cách bướng bỉnh. Bao nhiêu điều gì mới lạ khác và thói thường, với sự quen dùng, họ đều coi như không tốt và không bao giờ có ý tò mò muốn dùng. Đại đa số chỉ sống lần hồi từng ngày, nên họ không hề có những sự trông xa hoặc lâu dài và phiền phức rắc rối. Họ cần những hoa lợi mau chóng chắc chắn và dễ dàng, dẫu rằng ít ỏi. Họ nhận thấy ruộng thiếu phân bón nhưng họ chẳng biết làm thế nào cho có nhiều phân. Vì hình như họ cho sự thiếu thốn ấy là dĩ nhiên. Họ nghiệm thấy những giống thóc họ thường cấy là không cứng cây, không chịu được nước ngập... nhưng họ chẳng muốn tìm các giống tốt hơn và giả sử có tìm thấy họ cũng không dám cấy thí nghiệm. Họ cũng từng biết nghĩ rằng nếu rất nhiều người họp lại chung công của để đắp một khúc đê, xây vài ba cửa cống thi hờ lê giữ được nước mưa để cả một cánh đồng bằng khô khan trở nên chan hòa nước và cây cối tươi tốt. Nhưng họ cũng lại tin rằng đó là một sự chẳng bao giờ nên dám làm, vì chắc đâu đã được lợi. Vả lại trong việc khó khăn và lâu dài lắm. Thà rằng chẳng nghĩ đến làm còn hơn(!). Dốt nát, thủ cựu, nghèo, ưa thực tế, hay ngờ vực nhút nhát, mọi nhẽ ấy đã tạo thành những người nông dân khó hiểu, khó dìu dắt và khiến cho người nào nông nổi ương tính phải bực mình, có khi đến phải cáu phải ghét.


Người có tài cán mải chuyện đâu đâu
(Nguyễn Văn Vĩnh, Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã, Đông Dương Tạp chí năm 1914)


Người nước ta bao nhiêu kẻ có học thức, có khoa mục, có tài cán. Người thì ganh đua khoa bảng, kê thì luồn cúi cửa công hầu, người thì lo việc doanh sinh, kẻ thì chực tung hoành sơn thuỷ. Có tài có trí không ai ngồi lo tới việc làng. Có tưởng đến chẳng qua là lúc về nhà quê muốn nhân cái thế mình mà ăn trên ngói chốc, mà người dạ kẻ vâng, cho nó mát mặt mấy thím đàn bà vô tri vô giác mà thôi, chớ ít người biết lấy cái tài lực quyền thế mình ra mà chỉnh đốn việc dân xã.





Óc tồn cổ
(Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, năm 1939)


Trong làng, hễ động mưu công cuộc gì thoát ra ngoài lề lối tục lệ trong làng người ta đều bị coi như những sự quái gở, những tội ác đáng phạt. Khi óc tồn cổ tha hồ còn hoành hành thì bao nhiêu sáng kiến đều bị dìm dập.




Lễ nghi phong tục phiền phức
(Nam Cổ, Sự biến đổi của hương thôn từ xưa đến nay, Nam Phong, năm 1923)


Trong xã hội ta ở chốn thốn quê ngày xưa, hầu hết mọi người dẫu là không học mà trong sự cư xử hàng ngày cũng không lạc ra ngoài đường gia tộc luân lý. Tiền nhân ta nhiễm cái học chuyên chế của Tàu, đặt ra những lê nghi phong tục rất là phiền phức, đặt ra trật tự thượng hạ tôn ti bằng cái nóng quyền công chức, khiến con người ta có cũng như không, sống cũng như chết...




Chỉ biết lo thân
(Vũ Văn Hiền (Tân Phong), Mấy nhận xét nhỏ về dân quê Bắc kỳ Thanh Nghị, năm 1944)


Công tâm(1) là một thứ khó tìm thấy ở mọi người. Nghĩ cho cùng không nên trách dân quê là thiếu công tâm, vì họ phải sống trong một đời thiếu yên ổn về mọi phương diện bắt buộc họ phải nghĩ đến mình trước đã. Vả chăng trước mắt họ nào có ai treo một tấm gương sáng về việc nghĩ đến cái chung?!

(1) ngày nay có nghĩa ngay thẳng không thiên vị, nhưng trước đây, ở đây hiểu là sự lo lắng cho công việc chung.